KHƠI DÒNG SỬ VIỆT
(Viết lại theo ý bài nói chuyện nhân Đại Nhạc Hội “KHƠI DÒNG SỬ VIỆT” do Little Saigon Foundation SanDiego tổ chức với sự tham dự của hơn 1.500 đồng hương)
Kính thưa quý vị quan khách
Kính thưa quý đồng bào, quý chiến hữu và các bạn trẻ yêu nước
Kính thưa quý vị,
Trước hết, tôi xin gửi lời chào trân trọng nhất tới toàn thể quý vị và cũng không quên cám ơn các bạn trẻ yêu nước trong Little Saigon Foundation San Diego đã tổ chức thành công một Đại Nhạc Hội “KHƠI DÒNG SỬ VIỆT” với sự tham dự đông đảo chưa từng có như ngày hôm nay. Thưa quý vị, tôi thực sự xúc động khi đứng trước quý vị để chúng ta cùng ôn lại những dòng lịch sử thương đau mất mát của dân tộc. Quý vị đã bỏ một buổi tối cuối tuần bên mái ấm gia đình để đến đây không những khơi dòng lịch sử mà chính quý vị, chúng ta cùng với toàn dân trong nước đang góp phần tranh đấu chuyển đổi lịch sử để cứu dân cứu nước trước cảnh thù trong, giặc ngoài trong giờ phút lịch sử trọng đại này.
Thưa quý vị,
Đã 36 năm qua đi, 36 năm lưu vong nơi đất khách quê người nhưng trong lòng lúc nào cũng ấp ủ hoài bão một ngày trở về quang phục quê hương. Ngày hôm nay, Little Saigon Foundation do anh em giới trẻ SanDiego tổ chức một “Đại Nhạc Hội KHƠI DÒNG SỬ VIỆT nhân kỷ niệm “Ngày Quốc Hận 3-4-1975”. Tưởng niệm ngày Quốc hận để chúng ta cùng kính cẩn tưởng niệm những chiến sĩ VNCH đã hy sinh vì lý tưởng tự do, chúng ta kính cẩn cúi đầu trước những tấm gương oai hùng dũng liệt của những tướng lãnh sĩ quan và binh sĩ quân lực Việt Nam Cộng hòa đã tuẫn tiết khi Sài Gòn rơi vào tay quân CS. Đồng thời chúng ta cũng không quên kinh cẩn tưởng niệm những chiến sĩ đấu tranh cho tự do dân chủ sau ngày mất nước đã bị chế độ CS bạo tàn bất nhân đem ra pháp trường xử tử và những chiến sĩ lao tù đã chết vì bệnh tật đói khát trong các trại tù khắc nghiệt của CS.
Thưa quý vị,
Lịch sử tiến hoá một dân tộc không bao giờ là con đường thẳng mà thăng trầm trước những chông gai thách thức nhưng theo sử gia Arnold Toynbee, Việt Nam là một trong số nền văn minh tối cổ ngang hàng với văn minh Trung Hoa, văn minh Ấn Độ, văn minh Hy Lạp, văn minh La Mã của nhân loại còn tồn tại mãi tới ngày nay. Sử gia thời danh Arnold Toynbee đã nhận định là “Nếu thiếu những bức bách đòi hỏi dân tộc đó phải biết vận dụng một cách vượt bực khả năng xoay chuyển tình thế thì không có điều kiện để dân tộc đó thể hiện được hết sức mạnh và sự sáng tạo của họ. Chính những sự đáp ứng thích hợp trước những thách thức để vận dụng mọi cách vượt bậc khả năng xoay chuyển tình thế đã đưa tới những thành tựu văn hoá lớn lao, đã tạo nên bản lĩnh của dân tộc đó”.
Các công trình nghiên cứu mới nhất, khoa học nhất, thuyết phục nhất đã chứng minh rằng Việt tộc là một đại chủng, Dân tộc Việt là một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất với “VĂN MINH HÒA BÌNH”, một nền văn minh tối cổ của nhân loại. Chúng ta có quyền tự hào là một dân tộc có lịch sử lâu đời với gần năm ngàn năm văn hiến, một dân tộc có sức sống mãnh liệt nhất nên trải qua gần một ngàn năm nô lệ vẫn giành lại đươc nền đôc lập để tồn tại mãi với thời gian. Trên thế giới có lẽ không một dân tộc nào chịu đựng thử thách gian nan khốn khó hơn dân tộc Việt Nam. Lịch sử cũng đã chứng minh là dân tộc ta đã đáp ứng được những yêu cầu bức bách, những thách thức của từng thời đại để Việt Nam còn tồn tại mãi tới ngày nay.
Những kỳ tích lịch sử kể từ thời lập quốc đến nay bắt nguồn từ truyền thống của một dân tộc có gần năm ngàn năm văn hiến với nền văn minh đạo đức tự xa xưa. Chính truyền thống yêu nước thương nòi của dân tộc con Rồng cháu Tiên đã viết lên những trang sử huy hoàng có một không hai trong lịch sử nhân loại. Nhà sử học phương Tây Buttinger cũng thừa nhận cái sức sống vô biên của Việt tộc: “Từ khi người Trung Quốc khuất phục đến khi thống trị được họ, văn hoá Trung Quốc vẫn không thâm nhập được vào quần chúng Việt Nam”. Không những không thâm nhập được mà sức chiến đấu mãnh liệt của dân tộc Việt Nam để đồng hoá dân tộc thống trị hơn là bị đồng hoá vào dân tộc thống trị như nhà Việt Nam học Paul Mus đã viết:“ Ngay từ ngày lập quốc, tất cả then chốt của lịch sử Việt Nam đều ở cái tinh thần đối kháng đã biết kết hợp một cách kỳ lạ, một bên là năng lực đồng hoá lạ lùng, bên kia là ý chí quật khởi quốc gia không chịu khuất phục mặc dầu bị thua trận, bị phân tán, bị chinh phục. Hơn một ngàn năm bị sát nhập hoàn toàn vào Trung Quốc, từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên đến thế kỷ thứ mười sau kỷ nguyên, thay vì làm cho dân tộc Việt Nam kiệt quệ thì ngược lại đã làm cho dân tộc Việt trở nên hùng cường..”.
Thưa toàn thể quý vị,
Dân tộc Việt là một dân tộc có lịch sử bi hùng nhất từ thời lập quốc cho đến ngày nay. Lịch sử chứng minh rằng không một dân tộc nào trên thế giới chịu nhiều thương đau mất mát như dân tộc Việt Nam. Không một dân tộc nào có thể vùng lên giành lại độc lập dân tộc sau gần 1 ngàn năm bị kẻ thù truyền kiếp thống trị. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng không một dân tộc nào có thể chống lại đạo quân thiện chiến hung hãn nhất nhân loại thế kỷ thứ mười ba, thế mà chỉ có dân tộc Việt mới chiến thắng được đạo quân gọi là “Bách Chiến Bách Thắng” này không chỉ một lần mà chiến thắng oanh liệt cả ba lần khiến đế quốc Mông Cổ phải ngậm đắng nuốt cay rồi suy vong.
Dân tộc chúng ta đang đứng trước một khúc quanh của lịch sử, chúng ta đang đối mặt với “Thù Trong Giặc Ngoài”, thế nhưng thực tế lịch sử đã chứng minh rằng “Không có gì thắng được cái sức sống mạnh mẽ của người Việt Nam” và Trung Cộng, đế quốc mới của thời đại cũng lại nhận lãnh bài học nhớ đời trong nay mai nếu dám xâm lược nước ta một lần nữa. Bản tuyên ngôn độc lập, một thiên anh hùng ca bất hủ viết bằng máu của biết bao thế hệ Việt Nam đã được danh tướng Lý Thường Kiệt tuyên cáo trước nhân loại:
Sông núi Trời Nam của nước Nam
Sách Trời định rõ tự muôn ngàn
Cuồng ngông giặc dữ vào xâm lấn
Chuốc lấy bại vong lấy nhục tàn!
Toàn thể đồng bào Việt Nam trong nước và Hải ngoại sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để Tổ Quốc Việt Nam Trường Tồn, Dân tộc Việt Nam bất diệt …
Thưa quý vị,
Ngày hôm nay, nhân tưởng niệm 37 năm “Ngày Quốc Hận” chúng ta cùng nhìn lại cuộc chiến Việt Nam để có một kết luận cuối cùng “Ai thắng Ai?” trong cuộc chiến này. Phải chăng Việt Nam Cộng hòa là người thua trận và Cộng sản Việt Nam là kẻ chiến thắng? Quân đội VNCH nói riêng và Miền Nam VN nói chung bị đồng minh bán đứng trở tay không kịp trong một ván bài quốc tế nên trở thành người chiến bại. Quân cán chính VNCH đã làm hết sức mình để bảo vệ phần đất tự do nhưng không thể làm gì hơn khi tương quan lực lượng đã thay đổi: Quân số CS gần gấp đôi quân lực VNCH sau khi Mỹ rút quân, vũ khí đạn dược thua kém quân CS nhất là khi HK chỉ viện trợ cho VNCH sau năm 1972 có 18 triệu dollars, trong khi Liên Xô và Trung Cộng viện trợ cho Hà Nội 1 tỷ rưỡi dollars nên quân đội chúng ta không còn đạn dược để tác chiến. Vả chăng, một khi thượng tầng chính trị đã xụp đổ do những tính toán sai lầm thì kéo theo sự tan rã của quân sự là một điều không tránh được. Thế hệ chúng ta đã chiến đấu can trường dũng cảm nhưng cũng không thể cứu vãn được tình thế để rồi ngỡ ngàng tức tưởi chứng kiến:
Ngày tháng đó suốt đời ta nhớ mãi
Cả Sài Gòn nức nở một màu tang
Cờ hạ xuống bao hồn thiêng u uất
Nước ngậm ngùi cau mặt khóc tang thương …
Ta đứng đó lặng nhìn thành phố chết
Bao hờn căm u uất bỗng dâng trào
Lặng nghe lòng thổn thức những thương đau
Ôm mặt khóc, trời ơi mình chiến bại !!!
(Đoạn Trường Bất Khuất của Phạm Trần Anh)
Hàng triệu người Việt Nam yêu tự do đã phải bỏ nước ra đi, họ đã chấp nhận hy sinh tất cả đánh đổi mạng sống để sống chết với hai chữ “Tự Do”. Một cuộc bỏ phiếu bằng chân ý nghĩa nhất, vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: Một cuộc bỏ phiếu bằng cả tính mạng của hơn nửa triệu con người cho lý tưởng “TỰ DO”. Bài học lịch sử đầy máu và nước mắt đã cho chúng ta thấy rằng, không chỉ chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử mà cả quân đội Hoa Kỳ cũng bị các lãnh tụ chính trị ở Washington hy sinh hơn 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ trên chiến trường Việt nam để phục vụ cho ý đồ của họ. Thực tế phũ phàng đến mức chính Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam, tướng Westmorlant đã cay đắng tuyên bố “Quân đội chúng ta phải tham dự một cuộc chiến với một tay bị trói sau lưng, một cuộc chiến không được thắng…”. Ðô đốc Grant Sharp, cựu tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, đã giải thích “Cuộc chiến thất bại không phải vì chống không lại địch quân, mà vì chính sách của Hoa Thịnh Ðốn đã đẻ ra quá nhiều chiến lược, nào leo dần tới đáp ứng, rồi đang mềm dẽo đột nhiên dội bom, sau đó tự ý ngưng và thương thuyết tại bàn hội nghị để đạt chiến thắng. Cuối cùng tự mình trói tay đầu hàng, rồi tháo chạy khỏi chiến trường, dù chẳng hề bị sa lầy hay bị lâm vào tuyệt lộ…”. Tiến sĩ Sorley cho rằng: “Không có cách nói nào khác để giải thích nguyên do đưa đến kết cuộc bi thảm đó. Rốt cuộc chúng ta đã bỏ rơi miền Nam. Chúng ta đã hứa nếu giao tranh mới xảy ra, nếu miền Bắc vi phạm hiệp định Paris thì Hoa Kỳ sẽ trừng phạt những hành động vi phạm đó, ở đây tôi muốn nói tới việc dùng hỏa lực của không quân và hải quân. Ngoài ra theo tinh thần hiệp định Paris, Hoa Kỳ đã hứa sẽ thay thế các hệ thống, các thiết bị quân sự cho miền Nam trên căn bản một đổi một, kể cả xe tăng, súng ống, chiến đấu cơ vv… Ngoài ra, Hoa Kỳ hứa sẽ duy trì nguồn tài trợ dồi dào cho miền Nam. Tại một cuộc họp ở Tòa Bạch Ốc giữa Tổng Thống Thiệu và Tổng Thống Nixon, con số được nhắc tới là 1 tỉ đôla một năm, vô thời hạn. Thế nhưng tới thời điểm quyết định, tôi lấy làm tiếc là chúng ta đã không giữ cả 3 cam kết đó, trong khi sự giúp đỡ của các quan thầy Nga và Trung Quốc dành cho Cộng sản miền Bắc tiếp tục gia tăng.”
Để phân hoá hàng ngũ CS quốc tế, Hoa Kỳ đã làm mọi cách để lôi kéo Trung Cộng tách ra khỏi Liên Xô mà tài liệu giải mật cho biết, chính Hoa Kỳ đã bí mật cung cấp nhiều phương tiện, vũ khí hiện đại cho Trung Cộng và rút khỏi Đông Dương mặc thị để Trung Cộng giữ một vai trò quan trọng tại vùng châu Á Thái Bình Dương. Để Trung Cộng bỏ Liên Xô về hợp tác với Hoa Kỳ, người Mỹ đã dùng quần đảo Hoàng Sa như một món qùa đầu tiên và kế tiếp là cam kết mật với Trung Cộng là sẽ không can thiệp vào Đông Dương trong bất cứ tình huống nào. Do đó, Trung Cộng đã bật đèn xanh cho Hà Nội đem quân xé bỏ hiệp định Paris tấn công miền Nam với sự chi viện ồ ạt những vũ khí tối tân nhất cho quân đội CSVN. Trong tính toán của Nixon, làm được như vậy vừa có lợi cho nước Mỹ đồng thời tạo điều kiện cho Nixon rút quân ra khỏi VN để thắng thêm 1 nhiệm kỳ nữa. Thế nhưng vụ Watergate xảy ra, Nixon phải từ chức vào tháng 8 năm 1974. Tình hình bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ đã tác động hết sức ngặt nghèo đến cuộc chiến ở Việt Nam. Đảng dân chủ với ứng cử viên Tổng Thống năm 1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, Thượng Nghị sĩ McGovern đã nói với Jim Web sau này là Thượng Nghị sĩ rằng: “Anh không hiểu là tôi KHÔNG MUỐN chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó sao?”. Theo Thượng nghị sĩ Jim Web thì “Cuộc bầu cử vào quốc hội với sự thắng lợi của 76 dân biểu và 8 Thượng nghị sĩ đảng dân chủ tranh cử với cương lĩnh phản chiến của Mac Govern.…Ông McGovern là phần tử của một nhóm quyền lực ngầm gọi là Liên lạc Ngoại giao (SFR) được tài trợ bởi hệ thống tài phiệt quốc tế như Rockfeller, Ford Foundation… có ảnh hưởng vô cùng lớn trong chính trường đã phát động phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger và được quảng bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là “những con ác quỷ trong chánh quyền Nam Việt Nam”. Phong trào chống chiến tranh VN được sự đóng góp tối đa của Cộng sản quốc tế về nhân lực và tài chánh nên tác động đồng loạt trên toàn thế giới. Tại quốc hội Hoa Kỳ, một “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chánh”trong đó có Harold Ickes và Bill Clinton nỗ lực vận động những tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống Cộng Sản, ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi các đơn vị bộ đội chánh quy Bắc Việt được khối Sô Viết và Trung Cộng yểm trợ. Tháng Ba năm 1975, phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo, 189-49 đã bác bỏ đề nghị của Tổng Thống Gerald Ford xin viện trợ 300 triệu dollars bao gồm đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ cho miền Nam Việt Nam theo như cam kết của TT Nixon cũng như Hiệp Định Paris 1973 đòi hỏi phải cung cấp “viện trợ để thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt Nam. Thế lực ngầm của tập đoàn tài phiệt đã buộc chính giới Hoa Kỳ bức tử VNCH theo đúng kế hoạch để nhảy vào thị trường Trung Quốc với hơn 1 tỷ dân tiêu thụ, lương bổng công nhân rẻ mạt sẽ hạ giá thành sản phẩm để thu lợi nhuận tối đa. Đồng thời dùng số tiền viện trợ cho Việt Nam để chi viện cho Do Thái, chiến tranh với Irac để sản xuất cung ứng cho quân đội Hoa Kỳ và bán vũ khí cho các nước Trung Đông. Hoa Kỳ đã lún sâu vào cuộc chiến hết Irac tới Apganixtan khiến ngân sách quốc phòng ngày càng gia tăng, kinh tế suy thoái kiệt quệ. Chính quyền lợi của tập đoàn tư bản tài phiệt đã làm lu mờ hình ảnh một nước Mỹ với lý tưởng cao đẹp, đưa nước Mỹ vào cuộc khủng hoảng chính trị và suy thoái kinh tế chưa từng có như hiện nay.
Đến ngày nay, phần lớn hồ sơ đã được giải mật cho chúng ta thấy rằng, Cộng sản Việt nam đã không thắng được quân lực VNCH và họ cũng không thể nào thắng được quân đội Mỹ. Cuối cùng người Mỹ đã thua cộng sản ngay tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn của nước Mỹ khiến chính Tổng Thống L. B. Johnson đã phải thừa nhận: “Chúng ta đã đánh bại chính ta…”. Ba mươi sáu năm sau, Henry Kissinger, chứng nhân sống của lịch sử trong cuộc hội thảo tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 29-9-2010 đã nói lên sự thật: “Sự thảm bại tại VN vào ngày 30-4-1975 là do Hoa Kỳ gây nên, chứ không phải VNCH”.
Trên thực tế, cái gọi là “Đại thắng mùa Xuân!” chính là sự thất bại không gì cứu vãn nổi cuả CSVN kể từ ngày 30-4-1975. Từ trước tới nay, Cộng sản Việt Nam vẫn thường rêu rao họ chiến đấu để giải phóng dân tộc, giành lại độc lập dân tộc. Tất cả đã được phơi bầy khi Trung Cộng và Liên Xô công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Cộng sản Việt Nam là nhà nước Công-Nông, là thành trì của Xã hội chủ nghiã đầu tiên ở Đông Nam Á vào ngày 14-1-1959 và 31-1-1950. Chính vì vậy, ngày 7 tháng 2 năm 1950, Hoa Kỳ, Anh, Pháp đã công nhận chính phủ Quốc Gia do Đức Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo và nhân danh thế giới tự do trực tiếp can thiệp vào cuộc chiến ở Việt Nam để ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản. Nhân dân Việt Nam lâm vào thế trên đe dưới búa của một cuộc chiến tranh giữa 2 thế lực tư bản và cộng sản mà kết cục bi thảm là mấy triệu đồng bào Việt Nam đã hi sinh một cách vô nghĩa hết sức phi lý. Thực tế lịch sử đã chứng minh hùng hồn là thế kỷ XX là thế kỷ chấm dứt chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Bằng chứng cụ thể là Hoa Kỳ tự ý trả lại chủ quyền cho Phi Luật Tân (Philippine) năm 1946, Anh Quốc thừa nhận nền độc lập của Ấn Độ năm 1947, Hoà Lan giao trả độc lập cho Nam Dương (Indonesia) năm 1949 mà không phải hy sinh một ngươì dân nào. Thế thì tại sao, nhân dân Việt Nam phải hy sinh hàng triệu người để giành độc lập dân tộc? Đó chính là cốt lõi của vấn đề mà bất cứ ai cũng nhận thấy sau khi phân tích cụ thể rõ ràng. Chính vì Hồ Chí Minh là cán bộ đệ tam Quốc tế cùng với những Trần Phú, Lê Hồng Phong … đã rước voi Mác-Lê về giầy mả Tổ Hùng Vương, cõng rắn Trung Cộng về cắn gà nhà dân tộc! Cộng sản Việt Nam đã lợi dụng lòng yêu nước, dưới chiêu bài “Kháng chiến, giải phóng dân tộc” hy sinh hàng triệu người dân vô tội để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản xuống Đông Nam Á.
Lịch sử một lần nữa lại chứng tỏ CSVN là tập đoàn Việt gian án nước khi Phạm văn Đồng xác nhận bằng văn bản chủ quyền của Trung Cộng đối với quần đảo Hoàng Sa năm 1958 và lịch sử cũng chứng minh Việt gian CS là công cụ của quốc tế CS khi hy sinh công cuộc kháng chiến để ký kết hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 theo chỉ thị của Bắc Kinh. Thật vậy, giữa lúc cao trào kháng chiến dâng lên cao, thực dân Pháp bị lâm vào thế bí dẫn đến sự thất bại hoàn toàn về quân sự thì CSVN bị áp lực của quốc tế CS phải vào bàn hội nghị Genève chia đôi lãnh thổ. CSVN đã biến kháng chiến thành thỏa hiệp chia đôi đất nước, một lần nữa Việt Nam lại chịu cảnh qua phân hai miền Nam Bắc. Sau khi Mao Trạch Đông tuyên bố phải chiếm miền Nam để mở đường đánh chiếm các nước Đông Nam Á bằng mọi giá thì ngày 20 tháng 12 năm 1960, CSVN lại dựng lên cái gọi là “Mặt trận Giải phóng miền Nam” lợi dụng chiêu bài “Chống Mỹ cứu nước” để bành trướng chủ nghĩa CS, nhuộm đỏ cả đất nước Việt Nam. Đặc biệt, sau khi xâm chiếm miền Nam, bộ mặt thật của đảng CSVN đã tự phơi bày trước lịch sử. Ngày 25-4-1976 quốc hội bù nhìn gồm toàn đảng viên CSVN đã đặt tên là nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam và ngày 20-12-1976, CSVN đã đổi tên đảng Lao Động Việt Nam trở lại là đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này chứng tỏ rằng kể từ ngày toàn quốc kháng chiến, nhân dân Việt Nam yêu nước tham gia mặt trận Việt Minh để đánh đuổi thực dân Pháp chứ nhân dân Việt Nam không hề ủng hộ hoặc tham gia đảng CSVN. Do đó, nếu gọi là “công lao kháng chiến” thì cái “công lao” đó là của toàn dân là chứ không phải của đảng CSVN. Nếu nói rằng do đảng lãnh đạo thì trong lịch sử Việt, biết bao nhiêu cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đâu cần có đảng CS lãnh đạo cũng chiến thắng quân thù. Ngược lại, sự thật đã chứng tỏ CSVN chỉ lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân VN để bành trướng chủ nghĩa CS mà thôi. Nếu Hồ Chí Minh không phải là cán bộ quốc tế cộng sản hoặc là bất kỳ một người Việt Nam nào khác thì Tổng Thống Roosevelt đã đặt Viêt Nam dưới sự ủy trị của Liên Hiệp Quốc rồi và đất nước Việt Nam đã độc lập tự do và giàu mạnh từ lâu. Sự thật lịch sử đã chứng minh Hồ Chí Minh nói riêng và Đảng CSVN nói chung không hề có công mà ngược lại là có tội với nhân dân Việt Nam, họ mới chính là những “kẻ phản động” là “Tội đồ” của dân tộc vì đã hành động ngược lại quyền lợi của dân tộc Việt Nam, đã dâng đất nhường biển từng bước bán đứng VN cho Tàu Cộng.
Đối với tất cả người Việt Nam yêu nước thì ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày “Quốc hận”. Ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày “mất nước” không phải do ngoại xâm mà là kẻ nội thù ngay trong lòng dân tộc và hàng triệu đồng bào Việt Nam yêu nước chuộng tự do dân chủ đã phải bỏ nước ra đi. Hơn tám mươi triệu đồng bào Việt Nam đang sống quằn quại trong một nhà tù khổng lồ mệnh danh là nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam do chính những người cộng sản Việt Nam thống trị. Những người cộng sản tuy là người Việt Nam nhưng họ đã bán linh hồn cho Các Mác-Lênin, họ không còn là người Việt Nam nữa mà là những cỗ máy vô hồn vô cảm kềm kẹp nhân dân mình, họ chính là những tên “Thái thú Thời đại Xác Việt hồn Tầu”. Giai cấp mới thống trị là lớp đảng viên được hưởng đặc quyền đặc lợi trở thành những cường hào đỏ, những tư sản đỏ, mặc sức vơ vét tài sản của nhân dân, cướp nhà cướp đất để làm giàu trên mồ hôi nước mắt và xương máu của nhân dân. Hàng triệu dân oan bị cướp nhà cướp đất, hàng triệu công nhân bị giai cấp thống trị cấu kết với tư bản nước ngoài bóc lột sức lao động của họ, hàng triệu công nhân đưa đi xuất khẩu lao động, hàng trăm ngàn phụ nữ phải bán rẻ thân xác để kết hôn với người nước ngoài để cứu bản thân và gia đình đang đói khổ. Thực chất cái gọi là xuất khẩu lao động, xuất ngoại kết hôn không khác gì cuộc bán buôn nô lệ người da đen sang tân lục địa mấy thế kỷ trước. Nếu có khác là thay vì những tên lái buôn nô lệ thì là nhà nước cộng sản đứng ra thu thuế lợi tức xuất khẩu và những con người khốn khổ đi khỏi đất nước vì nghèo nàn đói khổ lại phải sống khổ hơn người nô lệ da đen thời trước. Trong suốt trường kỳ lịch sử, chưa bao giờ người dân lại chịu cảnh đói khổ như bây giờ kể cả thời thực dân Pháp. Biết bao người đã phải tha hương chịu cảnh gia đình ly tán, biết bao thiếu nữ Việt Nam ngây thơ trong trắng phải bán rẻ cả thân xác để nuôi sống gia đình.
Cộng sản đã để lộ bộ mặt thật giả nhân gỉa nghĩa của họ là một tập đoàn bán nước, một chế độ độc tài toàn trị tước đoạt mọi quyền tự do căn bản nhất của con người … Một chế độ rêu rao là Nhân dân làm chủ thực ra là làm chủ nhân dân, tước đoạt tài sản đất đai tư hữu của người dân, chế độ thuế khóa nặng nề, tham nhũng bóc lột nhân dân còn thậm tệ hơn chế độ phong kiến thực dân trước đây. Hơn tám mươi triệu đồng bào sống trong trại tù khổng lồ gọi là nhà nước CHXHCNVN và hàng triệu đồng bào phải bỏ nước ra đi tìm tự do. Cái gọi là thống nhất của Cộng sản Việt Nam chỉ là thống nhất tài sản nhân dân trong tay nhà nước quản lý mà thôi chứ không thống nhất được lòng người.
Đứng trên quan điểm Dân tộc, ngày 30-4-1975 chỉ là ngày chấm dứt một thời kỳ chiến tranh ý thức hệ để mở ra một thời kỳ lịch sử mới, một cuộc chiến mới bắt đầu: Cuộc chiến của “TOÀN DÂN CHỐNG CỘNG” cả trong Nam lẫn ngoài Bắc đều đứng lên chống lại chế độ bạo tàn phi nhân Cộng sản kể cả những đảng viên Cộng sản cao cấp từng bị lừa dối đã hiểu rõ bộ mặt thật của đảng CS Việt gian nên đã cùng với toàn dân đứng lên chống lại bạo quyền CS bất nhân hại dân bán nước.
Thưa quý vị,
CHÚNG TA ĐANG ĐỐI MẶT VỚI “THÙ TRONG” và “GIẶC NGOÀI”, dân tộc Việt Nam đang đứng trước nguy cơ mất nước, đại họa Hán hóa cận kề … Từ trong nước vang vọng những tiếng kêu cứu thảm thiết “Đất đai tôi đâu”, Việt Nam Tôi đâu???” khi tập đoàn tư bản đỏ, những tên cướp ngày dã man, những tên cường quyền đỏ, tư bản đỏ, Mafia đỏ đang xiết cổ dân lành, cướp bóc tài sản của nhân dân… Tiếng súng của người anh hùng Đoàn văn Vươn thay mặt cho gần chín chục triệu dân “cùng khổ” đã tuyên chiến bắn thẳng vào chế độ bạo tàn cướp đất dân lành. Tập đoàn Việt gian CS “Đã ác với dân” lại “hèn với giặc” tiếp tay “bán nước” nên lời ca thống thiết bi ai “Việt Nam Tôi đâu”… Tôi không thể ngồi yên, khi vận nước ngả nghiêng… Một ngàn năm nô lệ hay triền miên tăm tối… khi thế giới không còn VN…của nhạc sĩ trẻ yêu nước Việt Khang chính là bài “HUYẾT LỆ CA” của Hồn thiêng sông núi nhuốm đầy máu và nước mắt của người VN yêu nước thương nòi biết bao thế hệ. Lời hịch Cứu quốc vang lên kêu gọi toàn dân chúng ta cùng đứng lên đáp lời sông núi, đứng lên giành lại dân chủ tự do, giành lại cơm áo đất đai và quyền sống làm ngưòi, giành lại quyền làm chủ đất nước chứ không thể phó thác cho tập đoàn Việt gian bán nước ô nhục và tệ hại nhất trong lịch sử VN.
Sức chịu đựng của nhân dân đã cùng cực, họ không còn gì để mất nữa. Nhân dân đã vượt qua sự sợ hãi, công khai bày tỏ quan điểm của mình bất chấp sự bắt bớ, đánh đập dã man của bạo quyền cộng sản.Tiếng súng của anh hùng Đoàn văn Vương cùng với huyết lệ ca “Việt Nam Tôi đâu?” báo hiệu ngày tàn của chế độ Việt gian bất nhân hại dân bán nước. Thật vậy, tập đoàn Việt gian CS đang ngồi trên lò thuốc súng chứa đầy hờn căm uất hận của toàn dân từ hơn 2/3 thế kỷ qua, chúng vội vàng vơ vét tài sản của nhân dân, chúng run sợ nên càng ngày càng điên cuồng đàn áp dã man những chiến sĩ dân chủ, đồng bào dân oan để duy trì chế độ hòng bóc lột vơ vét tài sản của nhân dân trước khi tháo chạy. Chế độ CS tàn bạo bất nhân đang dãy chết, những hành động đánh đập, bắn hiết nhân dân như đốm lửa bùng lên trước khi tắt lịm, giờ đền tội trước nhân dân chỉ còn tính từng ngày, tháng…
Thưa quý vị,
Với lịch sử hào hùng, với tinh thần bất khuất, lòng yêu nước thương nòi trong huyết quản mọi con dân đất Việt, chúng ta sẽ đánh tan quân Trung Cộng xâm lược tan tành không còn manh giáp. Lịch sử đã chứng minh rằng dân tộc Việt với những chiến công hiển hách có một không hai trong lịch sử nhân loại. Mùa xuân năm 1075, danh tướng Lý Thường Kiệt đã đem quân sang đánh tan tành châu Ung, châu Khâm của TQ. Đặc biệt, chiến tích oai hùng đã đi vào lịch sử nhân loại với 3 lần đánh tan đạo quân Mông Cổ thiện chiến hung hãn nhất thế giới thời bấy giờ…1258,1285 và 1288. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng không có một dân tộc nào lại có thể vùng lên giành lại độc lập dân tộc sau gần 1 ngàn năm bị ngoại bang đô hộ và lịch sử cận đại cũng chứng minh rằng, sau 36 năm tạm gọi là mất nước mà ngọn cờ vàng vẫn ngạo nghễ tung bay khắp năm châu bốn biển với sự ủng hộ chưa từng có của toàn thể loài người văn minh tiến bộ như ngày nay.
Thưa quý vị, năm 1284, Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông đã triệu tập bô lão trên toàn quốc về điện Diên Hồng để bàn việc nước: Hoà hay chiến và toàn thể bô lão đã nắm chặt tay giơ cao lên hô vang Quyết chiến, quyết chiến cho đến người VN cuối cùng để bảo vệ giang sơn gấm vóc của tiền nhân để lại và đạo quân Nguyên Mông đã tan hang tháo chạy về nước năm 1285. Thưa quý vị 728 năm sau, một hội nghị Diên Hồng Thời đại do toàn dân già trẻ cùng đứng lên ký tên vào “THỈNH NGUYỆN THƯ” và kéo nhau về DC để nhân danh 150 ngàn công dân Mỹ gốc Việt “We The People” yêu cầu TT Hoa Kỳ đặt nhân quyền trước các quyền lợi kinh tế thương mại buộc nhà cầm quyền CSVN phải thả toàn bộ tù nhân Chính trị… Nhân dịp này, Hội Ái Hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo VN đã công bố “LỜI KÊU GỌI” được 149 Hội đoàn văn hoá xã hội và Đoàn thể chính trị cùng ký tên đã nói lên sự thống nhất hành động của các hội đoàn, Đoàn thể ký tên gửi Tổng Thống Hoa Kỳ và các nước dân chủ tự do trên toàn thế giới yểm trợ cho cuộc tranh đấu đòi dân chủ tự do của toàn dân Việt Nam. Ông giám đốc văn phòng Tiếp cận Công chúng của Tòa Bạch ốc đã thay mặt TT một người đấu tranh cho nhân quyền chào đón cộng đồng VN và ghi nhận đây là một hiện tượng. Một phái đoàn gồm giám đốcđặc trách Đông Nam Á sư vụ, Giám đốc Việt Nam Sự vụ và Ô Michael Posner, phụ tá Thứ trưởng đặc trách Dân chủ và Nhân quyền bộ Ngoại giao HK lắng nghe nguyện vọng của cộng đồng VN. Phái đoàn này chính là những người hoạch định chính sách trình lên chính phủ Obama thi hành. Mới đây, ông, Michael Posner, Phụ tá Ngoại trưởng đặc trách Nhân quyền và Lao động đã gửi văn thư chính thức trả lời cộng Đồng Người Mỹ gốc Việt như sau: “Tôi xin cảm ơn tất cả quý vị đã ký thỉnh nguyện thư này, nêu bật mối quan tâm của người Mỹ đối với nhân quyền tại Việt Nam và mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Trong lúc chúng tôi tiếp tục đối thoại với Việt Nam, chúng tôi đặc biệt chú ý đến quan điểm của cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ. Trong cuộc Đối thoại thường niên về Nhân quyền giữa Hoa Kỳ và Việt Nam hồi tháng 11, tôi cùng Đại sứ lưu động về Tự do Tôn giáo Quốc tế Suzan Johnson Cook và một số giới chức cao cấp khác, đã hối thúc Việt Nam trả tự do cho tất cả các tù chính trị, tăng cường tự do tôn giáo, phê chuẩn và thực thi Công ước Chống Tra tấn, và thực hiện các biện pháp khác để bảo vệ và thăng tiến các quyền phổ quát của con người.
Hoa Kỳ sẽ vẫn kiên trì theo đuổi những tiến bộ về nhân quyền trong khi giao tiếp ở cấp cao, đồng thời theo đuổi nhiều lợi ích về an ninh, kinh tế, và chiến lược với Việt Nam. Trong các cuộc thảo luận của chúng tôi với chính phủ Việt Nam, “chúng tôi nhấn mạnh rằng tiến bộ về nhân quyền, trong đó có việc thả tù chính trị và tự do tôn giáo, là một phần cần thiết để cải thiện quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam”. Chúng ta cũng không quên rằng mỗi lần bầu cử TTHK đều tác động đến các nước khác nhất là kinh nghiệm mùa bầu cử 1972, đảng dân chủ với những Mac Govern, J Kerry … và phong trào phản chiến cùng với quyền lợi của TT Nixon, Kissinger của đảng CH khiến chúng ta mất nước. Ngày hôm nay, lịch sử lại tái diễn khi nước Mỹ đã thay đổi chính sách quay trở lại châu Á Thái Bình Dương, quyền lợi của đảng Dân chủ cầm quyền trong mùa bầu củ 2012 và nguyện vọng của hơn 1 triệu rưỡi người Mỹ gốc Việt được các vị dân biểu Thượng nghị sĩ trân trọng lắng nghe. Nói đến đây, chúng tôi cộng đồng VN ở San Diego nói riêng và cộng đồng VN nói chung cảm ơn nữ dân biểu Susan Davis đã lên tiếng ngay ngày 4-3-2012 “Yêu cầu các dân biểu đồng viện hãy thúc đẩy tổng thống hãy đặt [mục tiêu] Tự Do và Nhân Quyền trước hết”. Ngày 7-3-2012, Ủy ban Ngoại giao Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu bằng miệng mà không gặp sự chống đối nào để thông qua một dự luật hạn chế viện trợ cho Việt Nam trừ phi quốc gia cộng sản này đạt được tiến bộ trong việc cải tiến thành tích nhân quyền.
Thưa quý vị,
Hôm nay, chúng ta có mặt nơi đây để tưởng niệm ngày quốc hận. Làm sao chúng ta có thể quên được gần 90 triệu đồng bào VN chúng ta đang oằn oại, dở sống dở chết trong sự kềm kẹp của tập đoàn CS Việt gian hại dân bán nước … Làm sao chúng ta có thể ngồi yên nhìn những mảnh đời bất hạnh, khốn khó tang thương, những khuôn mặt đói ăn xanh xao hốc hác, những thân hình ốm o tiều tụy của hàng triệu em bé VN thơ ngây vô tội trong khi tập đoàn Việt gian bóc lột vơ vét tài sản của nhân dân trên thân xác của người dân vô tội. Làm sao chúng ta có thể dửng dưng khi thấy tập đoàn Việt gian CS bất nhân hại dân bán nước đang cướp đoạt đất đai của dân oan, đánh đập dã man giết chết dân lành vô tội. Chúng ta phải thực hiện bổn phận và quyền công dân của chúng ta bằng cách ghi tên đi bầu đông đảo, ủng hộ tinh th ần và đóng góp gây quỹ để các đại diện dân cử của cả 2 đảng DC và CH phải tôn trọng lắng nghe và ủng hộ nguyện vọng chính đáng của chúng ta. M ặt kh ác ch úng ta ph ải đo àn k ết, th ống nh ất ý ch í, th ống nh ất h ành đ ộng như cộng đồng lưu vong Ba Lan đã yểm trợ tối đa về tinh thần lẫn vật chất để giải thể chế độ CS Ba Lan… Chúng ta phải hy sinh, hạn chế việc gửi tiền và chỉ đi về Việt Nam trong trường hợp thật cần thiết. Bốn triệu đồng bào Việt Nam Hải ngoại vận động các cộng đồng dân cư bạn cùng với toàn dân trong nước quyết tâm tẩy chay thực phẩm “độc hại”, hàng hoá “dzổm giả” của Trung Quốc để đánh bại kẻ thù truyền kiếp của dân tộc trên mặt trận kinh tế. Chúng ta vận dụng tối đa công tác quốc tế vận, chúng ta khuyến khích giới trẻ Việt Nam tại hải ngoại tìm mọi cách để vận động bạn bè người Mỹ để họ cùng cất lên tiếng nói cho tự do dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Chúng ta và con em chúng ta dành thì giờ để forward những bản tin để chuyển lửa internet để giật sập bức màn sắt che đậy bưng bít của Việt gian CS, một cuộc cách mạng truyền thông sẽ tạo thành một trận “Bão lửa” thiêu đốt thành tro bụi những tàn dư rác rưởi của chủ nghĩa CS vô thần trên đất nước Việt Nam.
Thưa quý vị, Một khi tất cả đồng bào oan khiên, tất cả công nhân nghèo đói, tất cả thanh niên sinh viên yêu nước, tất cả tôn giáo từ Phật giáo, Thiên chúa giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin lành cùng nhất loạt nắm chặt tay nhau ngồi cầu nguyện cho tự do tôn giáo, đòi lại tài sản giáo hội. Một cuộc đấu tranh giành lại quyền sống tự do dân chủ, quyền làm chủ đất nước trong ôn hòa bất bạo động, bất hợp tác đã và đang diễn ra trên cả nước. Thanh niên sinh viên học sinh bãi khóa, công nhân đình công, tiểu thương bãi thị cho đến khi cộng sản phải thoả mãn yêu cầu chính đáng của nhân dân thì ngày đó là ngày thắng lợi của Dân tộc Việt Nam. Bằng không, lòng dân muôn người như một đứng lên giành lại quyền sống làm người đến, tất cả u uất căm hờn tự bao năm sẽ gom lại như ngọn sóng thần, bất cứ lúc nào sẽ trào dâng như thác đổ thành bão táp cách mạng sẽ cuốn trôi tất cả tập đoàn Việt gian bất nhân hại dân bán nước, những tàn dư rác rưởi tệ hại xấu xa của chế độ cộng sản bạo tàn phi nhân xuống hố thẳm của lịch sử.
“Thỉnh Nguyện Thư” của 150 ngàn công dân Hoa Kỳ gốc Việt, “Thỉnh Nguyện Thư” của cộng đồng Việt Nam tại Úc Châu, Canada … thể hiện ý chí quyết tâm Diên Hồng Thời Đại đã được chính giới Hoa Kỳ và công luận toàn thế giới ủng hộ nồng nhiệt. Tất cả chỉ còn tùy thuộc vào quyết tâm của toàn dân trong nước thể hiện trong các cuộc đồng loạt xuống đường chống đế quốc mới Trung Cộng, xuống đường đòi dân chủ, đòi lại đất đai ruộng vườn trên cả nước. Toàn thê đồng bào Việt Nam Hải ngoại sẽ làm hết sức mình từ tinh thần đến vật chất yểm trợ cho đồng bào trong nước, chúng ta cùng chuyển đổi lịch sử để cứu dân cứu nước. Một khi toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước cùng nhất loạt đứng lên làm cuộc cách mạng Trống Đồng chuyển đổi lịch sử thì mùa Xuân Dân tộc sẽ trở về trên quê hương yêu dấu của chúng ta trong một ngày rất gần, rất gần đây để nhân dân được sống trong dân chủ tự do ấm no hạnh phúc thực sự như đại danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi đã viết trong “Bình Ngô Đại cáo”:
“ Đại nghĩa thắng hung tàn ..
Chí nhân thay cường bạo ..!”
Giờ cáo chung của chế độ Việt gian Cộng sản bất nhân hại dân bán nước đã điểm… Nhân dân trong nước sẽ “Tổng biểu tình, Tổng nổi dậy” để đưa chủ nghĩa CS và tập đoàn Việt gian CS tới nơi an nghỉ cuối cùng: “Thiên đường Cộng sản” của họ trong nay mai. Nhân dân Việt Nam sẽ xóa bỏ cái gọi là thành phố HCM để lấy lại tên Sài Gòn. Chúng ta sẽ trở về Sài Gòn dấu yêu trong vinh quang của mùa Xuân Dân Tộc.
Tổ Quốc Việt Nam Trường Tồn …
Dân Tộc Việt Nam bất diệt …
Việt Nam Muôn Năm …
Xin trân trọng kính chào quý vị
PHẠM TRẦN ANH
LỜI KÊU GỌI
1. Nhận định rằng: Tạo Hoá đã ban cho con người quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc mà Hiến pháp Hoa Kỳ và các nước văn minh trên thế giới đều minh định, tôn trọng triệt đề. Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết tuân thủ bản Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền và Công Ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị nhưng chế độ Cộng sản Việt Nam cho đến nay vẫn không thực hiện những văn kiện này.
2. Nhận định rằng: Nhân loại đã bước vào thiên niên kỷ thứ ba của văn minh tiến bộ, mọi người đều phải được sống an bình hạnh phúc trong một xã hội thực sự dân chủ tự do. Quyền tự do tôn giáo, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội, quyền tư hữu là quyền sống của một người dân. Ngay từ thời phong kiến quân chủ, luật pháp cũng đã minh định xác nhận quyền tư hữu, nhất là quyền sở hữu đất đai của người dân. Trong một nhà nước pháp quyền, mọi công dân phải có quyền lập hội, nông dân phải có Hiệp hội nông dân, công nhân phải có nghiệp đoàn công nhân do chính họ bầu ra để tranh đấu bảo vệ quyền lợi thiết thân của họ hầu bảo đảm cho miếng cơm manh áo và hạnh phúc cho mình. Chế độ Cộng sản Việt Nam chưa thực sự thực hiện điều này.
3. Nhận định rằng: Nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên sinh viên là rường cột, là tương lai của dân tộc. Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam không tôn trọng, lắng nghe những đề nghị xây dựng, những nguyện vọng đích thực của giới trí thức, văn nghệ sĩ và của mọi tầng lớp nhân dân. Trái lại, nhà cầm quyền CSVN lại khống chế, mua chuộc và sử dụng họ như những công cụ để phục vụ cho đảng Cộng sản, cho tập đoàn lãnh đạo hại dân bán nước. Chế độ Cộng sản Việt Nam đã trấn áp phong trào nhân dân yêu nước, đánh đập bắt giữ những công dân yêu nước như nhạc sĩ Việt Khang, nhà báo Phạm Thanh Nghiên, nhà báo Tạ Phong Tần, dân oan Bùi Thị Minh Hằng …
4. Nhận định rằng: Quân đội của một quốc gia là lực lượng bảo vệ đất nước khi lâm nguy. Thế mà chế độ Cộng sản Việt Nam đang sử dụng quân đội như một công cụ để bảo vệ đảng, bảo vệ tập đoàn Việt gian CS hại dân bán nước. Tổ quốc đang lâm nguy, Sơn hà đang nguy biến. Tổ quốc và dân tộc Việt Nam đang đứng bên bờ vực thẳm của nguy cơ mất nước, đang đứng trước hiểm họa “Hán hóa” dân tộc của Trung Cộng, đế quốc mới của thời đại. Tập đoàn tư bản đỏ, cường hào đỏ đang manh tâm bán nước cho Trung Cộng để duy trì chế độ độc tài bất nhân, phản dân hại nước, làm giàu trên mồ hôi, nước mắt và xương máu của nhân dân…
5. Nhận định rằng: Trung Quốc ngày nay với tham vọng bành trướng, muốn công khai độc chiếm Biển Đông Nam Á, nên đã trở thành đế quốc mới thời đại, không chỉ đe dọa sự sống còn của dân tộc Việt Nam và các nước Đông Nam Á mà còn là hiểm họa của toàn thể nhân loại.
Trước hiểm họa xâm lược thôn tính Việt Nam của đế quốc mới Trung Cộng,
Vì sự tồn vong của dân tộc và sự ổn định của nền an ninh thế giới,
Chúng tôi, tất cả những người Việt Nam yêu nước, khẩn thiết kêu gọi:
1. Nhà nước Cộng hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam phải thực hiện những điều khoản trong bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và chính trị. Nhà nước Cộng hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam phải trả lại quyền sống làm người, phải tôn trọng thực sự các quyền tự do căn bản của người dân.
2. Nhà nước Cộng hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam phải ban hành các đạo luật qui định các quyền tự do căn bản của người dân trong một xã hội Dân chủ tự do. Nhà nước CHXHCNVN phải trả lại quyền tư hữu Tài sản, nhất là quyền sở hữu đất đai cho người dân. Nhà nước CHXHCNVN phải thực sự tôn trọng quyền tự do tôn giáo, phải trả lại đất đai tài sản của các tôn giáo, phải giải tán các giáo hội quốc doanh, trả lại quyền phục hoạt cho Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất là Giáo hội Phật giáo duy nhất có tư cách chính đáng tại Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam phải giải tán các nghiệp đoàn và hiệp hội quốc doanh để trả lại quyền tự do thành lập Hiệp Hội Nông dân, quyền tự do thành lập nghiệp đoàn công nhân.
3. Nhà nước Cộng hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam phải giải tán các hội trí thức, hội nhà văn, hội nghệ sĩ do chính quyền tổ chức và điều khiển. Nhà nước phải trân trọng nhân sĩ trí thức, phải trả lại quyền tự do sáng tạo của người nghệ sĩ chân chính. Nhà nước CHXHCNVN phải trả lại quyền tự trị của đại học, hủy bỏ những môn chính trị và triết học một chiều nhồi sọ sinh viên học sinh, phải giải tán Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là công cụ nô lệ hóa giới trẻ.
4. Nhà nước Cộng hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam phải trả lại cho quân đội nhiệm vụ thiêng liêng cao cả bảo vệ đất nước chống Trung Quốc xâm lược. Đã đến lúc, Đảng CSVN và nhà nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phải đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết nếu muốn tồn tại. Bằng không, toàn dân sẽ xuống đường biểu tình tranh đấu, bất hợp tác với chính quyền và cùng với quân nhân yêu nước giành lại quyền làm chủ đất nước.
Nhà nước Cộng sản Việt Nam phải trả tự do tức khắc và vô điều kiện cho tất cả tù nhân lương tâm Việt Nam, trả lại đất đai cho tất cả đồng bào dân oan trên cả nước. Từng bước giao trả lại quyền làm chủ đất nước cho toàn dân bằng cách tổ chức một cuộc bầu cử dân chủ dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc để toàn dân bầu Quốc hội Lập Hiến soạn thảo một Hiến pháp mới, qui định một chế độ mới cho Việt Nam.
5. Chính phủ Hoa Kỳ và các nước văn minh trong thế giới tự do, các Hội đoàn tổ chức quốc tế tranh đấu cho nhân quyền hãy ủng hộ nhân dân Việt Nam hoàn thành cuộc cách mạng Dân tộc Dân chủ chống độc tài toàn trị, chống bất công áp bức và chống lại sự xâm lược của Trung Quốc, đế quốc mới của thời đại để xây dựng một quốc gia tự do tiến bộ, góp phần bảo vệ nền an ninh và thịnh vượng cho toàn thế giới.
Làm tại Hải ngoại ngày 5-3-2012
Hội Ái Hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam
PHẠM TRẦN ANH
DANH SÁCH HỘI ĐOÀN, ĐOÀN THỂ VÀ NHÂN SĨ ĐỒNG KÝ TÊN:
1. Hội Ái Hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam: Ô Phạm Trần Anh.
2. Hội Nhân sĩ Diên Hồng Thời Đại: Bô lão Võ Toàn.
3. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất: HT Thích Không Tánh (Việt Nam).
4. Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Tuý: Hội Trưởng Lê Quang Liêm (Việt Nam).
5. Khối 8406: LM Phan văn Lợi (Việt Nam).
-
Hiệp Hội Thông Công Tin Lành Các Dân tộc Việt Nam, Giáo Hội Liên Hữu
Lutheran Viet Nam & Hoa Kỳ.
7. Cao Đài Giáo Việt Nam: GS Nguyễn Mạnh Bảo (Việt Nam).
8. Nhóm LM Nguyễn Kim Điền: Đại diện LM Phêro Nguyễn Hữu Giải (Việt Nam).
9. Hội Quốc tế Nghiên cứu Biển Đông Nam Á: GS Nguyễn Thanh Liêm.
10. Mặt Trận Dân Tộc Cứu Quốc: Phạm Hưng Quốc.
-
Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại: DS Vũ văn Tùng, CT.
12. Đại diện Khối 8406 Hải Ngoại: GS Nguyễn Chính Kết.
-
Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California: LS Nguyễn Xuân Nghĩa.
-
Ủy Ban Hoà đồng Dân tộc và Tôn giáo: TS Nguyễn Anh Tuấn.
-
Liên minh Dân tộc Việt Nam: Nhà văn Chu Tấn.
16. Tổ chức Quốc tế Yểm Trợ Cao Trào Nhân Bản: BS Nguyễn Quốc Quân.
17. Phong Trào Giáo Dân: Ô Cao Viết Lợi.
18. Tổng Hội Cựu Tù nhân Chính Trị Việt Nam: Ô Nguyễn Trung Châu.
19. Hội Nghiên cứu Lịch sử: Nhà bình luận Chu Chi Nam.
20. Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước:
Chủ Tịch Bà Đặng Thị Danh, Toronto, Canada .
21 . Phong Trào yểm Trợ Tự do Tôn giáo và Nhân quyền Việt Nam: HT Thích Nguyên Trí.
22. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Âu Châu: Cựu Thẩm phán Trần Đức Lai.
23. Phong trào Đấu tranh Đòi Tự Do Tôn Giáo và Nhân quyền VN: Ô Lại Thế Hùng.
24. Truyền Thông Toàn cầu Global Viet Media: Dr Nghiêm Phú.
25. Coalition of American Citizen For Freedom and Democracy:
BS Nguyễn Hy Vọng
26. Việt Nam Cộng Hòa Foundation: Thiếu Tướng Lý Tòng Bá.
27. Vietnam Helsiki HR Committeee: Ô Trần Tử Thanh.
28. Việt Nam Quốc Dân Đảng Thống Nhất: Ô Lê Sơn Hà, Phó TBT
29. Liên Minh Quang Phục Việt Nam: Nhân sĩ Võ Đại Tôn.
30. Đại Việt Quốc Dân Đảng: TS Phan văn Song.
31. Mặt Trận Việt Nam Tự Do Âu Châu: Ô Trần Minh Chiêu
32. Liên Minh Dân chủ Việt Nam Thuần Túy: Ô Lý Hiền Tài.
33. Đại Việt Cách Mạng Nam California: Ô Nguyên Duy.
34. Đảng Dân chủ Nhân dân: Ô Đỗ Thành Công.
35. Hội Nhân sĩ Diên Hồng Thời Đại Úc Châu: Nhân sĩ Phạm Ngọc Điệp.
36. Hội Nhân sĩ Diên Hồng Thời Đại Bắc California: Nhân sĩ Phạm văn Tường.
37. Hội Nhân Sĩ Diên Hồng Thời Đại Nam California: Học gỉa Vũ Hữu San.
38. Hội Nhân Sĩ Diên Hồng Thời Đại Colorado: Nhân sĩ Trần Trọng Thuyên.
39. Hội Nhân sĩ Diên Hồng Thời Đại Canada: LS Vũ Ngọc Truy.
40. Hội Nhân sĩ Diên Hồng Thời Đại SanDiego: Nhân sĩ Phan Bái.
41. Ủy Ban Phối Hợp chống CS và Tay sai: Nhân sĩ Phan Kỳ Nhơn.
42. Hội Đền Hùng Hải Ngoại: Nhân sĩ Trần Thanh Phong.
43. Cộng đồng Công giáo Nam VN: Ô Nguyễn Thanh Liêm.
44. Các Hội đoàn Trẻ Nam Cali (Tổng Hội Sinh Viên, Ðoàn Thanh Niên Phan Bội Châu, Ðoàn Thanh Niên Thủy Quân Lục Chiến, Ðoàn Thanh Niên Việt-Mỹ, Ðoàn Thanh Niên Cao Ðài, Ðoàn Thanh Niên Phật Tử Miền Quảng Ðức, Ðoàn Thanh Niên Phật tử chùa Ðiều Ngự, Ðoàn Thanh Niên Phật Giáo Hòa Hảo, Giới Trẻ Công Giáo và Liên Ðoàn Học Sinh Trung Học Nam California: Billy Lê.
54. Trung tâm Trưởng /TTĐH/TB/HK: BĐQ/Tr tá Lương văn Ngọ.
55. Trung tâm Trưởng /TTĐH/TN/HK: Ô Trần Vệ.
56. Ủy Ban Bảo Toàn Đất Tổ: Ông Đoàn Thế Cường.
57. Ban Trị sự Trung ương Hải Ngoại, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo: GS Nguyễn Thành Long.
58. Vietnamese historical researcher association in Europe. : Ô Nguyễn PhúC Bảo Việt.
59. Hội Cựu SV Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông Hoa Kỳ: Ô Nguyễn Kim Hương Hỏa.
60. Hội Cựu SV Quốc Gia Hành Chánh Nam Cali: Ông Trần Ngọc Thiệu.
61. Uỷ Ban Vận động CPC: Ông Nguyễn Tấn Lạc.
62. Phong Trào Yểm Trợ Tự Do Tôn Giáo và Nhân quyền VN: LM Đinh Xuân Minh.
63. Vietnamese American Voters Association: Jackie Bong Wright, President.
64. Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam, chi hội Âu Châu:
TS Nguyễn Ngọc Hùng.
65. Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam, chi hội Úc Châu:
PCT Đoàn Nguyên Hồng.
66. Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam, chi hội Cambodia:
Nguyễn Phùng Phong.
67. Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam, chi hội Thái Lan:
Lê Thái Lan.
68. Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam, chi hội Đan Mạch:
Nữ sĩ Uyên Hạnh, Cố vấn Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo VN.
69. Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam, chi hội Nam California:
Ô Trương văn Anh.
70. Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo Việt Nam, chi hội Bắc California:
Dr Phạm Đức Vượng.
71. Cộng Đồng Việt Nam Cleverland: Ông Nguyễn Hữu Lễ.
72. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Dallas và Phụ cận: Bà Lê Lâm Ngọc.
73. Cộng Đồng Việt Nam Florida: Ô Lưu văn Tươi.
74. Hội Đồng Việt Nam Tự Do: Ông Phan Như Hữu.
76. Hội Nữ Quân Nhân Nam California: bà Phạm Thị Diệu Chi.
77. Văn Bút Tây Nam Hoa Kỳ: Nhà văn Nguyễn Hữu Của.
78. Diễn Đàn Tự Do Dân Chủ: Ông Nguyễn Duy Nghiêu.
79. Câu Lạc Bộ Dân Chủ Tự Do: Ông Nguyễn Cao Nguyên.
80. Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo: Ông Phạm Đức Hậu.
81. Hội Cử Tri Việt Mỹ Nam Cali: Ông Hoa Thế Nhân.
82. Hội Đồng Hương Biên Hòa: Bà Duyên Trang.
83. Hội Nữ Quân Nhân Nam Cali: Bà Phạm Diệu Chi.
84. Ái Hữu Quốc Gia Nghĩa Tử: Ông Ngô Chí Thiềng.
85. Cộng Đồng Riverside: Nhân sĩ Phan Đa Văn.
86. Tổng đoàn Thanh niên Phật giáo Hòa Hảo: Ô Trương văn Đức.
87. Câu Lạc bộ Thi văn Tao Đàn Hải ngoại: Nhà thơ Vũ Lang.
88. Câu Lạc Bộ Tình Nghệ sĩ: NS Cao Minh Hưng.
89. Chiến sỹ Nguyễn Thị Ngọc Hạnh (Sáng lập viên PTPNVNHĐCN) France.
90. Hội Hải Quân & Hàng Hải Trần Quang Khải, Philadelphia và phụ cận:
Hội Trưởng Nguyễn Tạ Quang.
91. Ban Tư Vấn 8406: Ô Nguyễn Thanh Hùng.
92. Tiếng Nói Giáo dân: Bà Trần Thanh Hiền.
93. Bạch Đằng Giang Founation: Dương Hồng Thẩm, Việt Nam.
94. Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước: Nguyễn Khánh, Việt Nam.
95. Hội Đồng Hương và Thân Hữu Thái Bình: Bà Đào Bích Ty.
96. Hội Đồng Hương Ban Mê Thuột : Ô Nguyễn Xuân Kế.
97. Diễn Đàn Văn Hiến Việt Nam: Nam Phong.
98. Vietnamtomorrow Foundation: Phạm Trần Quốc Việt.
99. Tổ chức Bạch Đằng Giang: Nguyễn Đức Vinh.
-
Báo Thời Luận: Nhà văn Đỗ Tiến Đức.
101. Điện Báo Ánh Dương: Bà Đỗ Thị Thuấn.
102. Diễn Đàn Người Dân Việt Nam: Minh Đức.
103. Khối 8406 Nam California: Ô Vũ Hoàng Hải, Tư vấn.
104. Hội Đồng Hương Quảng Nam Đà Nẵng WA: Đinh Hùng Chấn: Hội Trưởng.
105. Phân Khu Hội Cựu TNCTVN Tacoma WA: Ông Cao Hữu Thiên.
106. Ái Hữu Thiếu Sinh Quân Sandiego: Ô Vũ Ngọc Mỹ.
107. Cộng Đồng Người Việt Quốc gia Nam Cali: Ô Trần văn Thắng.
CT Ủy ban Thường vụ HĐ Giám sát.
108. Cộng Đồng Việt Nam SanDiego: Ô Nguyễn văn Lực.
109. Gia đình Phật Tử An lạc Phụng Sự: Cư sĩ Hoàng văn Phong.
110. Tạp san Đồng Nai Cửu Long: Ô Vương Huê.
111. Cộng Đồng Việt Nam Los Angeles : Nhân sĩ Nguyễn văn Cừ.
112. Gia Đình Phật Tử Miền Quảng Đức : Tâm Hòa Lê Quang Dật.
113. Hội Đồng Hương Bạc Liêu: Ô Hứa Trung Lập.
114. Nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân: nhà báo Trần Phong Vũ
115. Hội Phụ Nữ Nhân Ái Thiện Nguyện Nam Cali HK: Bà Hồng Lan.
116. Liên Hội Cựu Chiến Sĩ SanDiego: Ô Hoàng văn Nhạn.
117. Lực Lượng Thanh niên Việt Nam Âu Châu: Ô Lý Minh Thuận.
118. Nghị viện Người Việt Tỵ nạn CS ở Âu Châu: Ô Cao Tấn Hưng.
119. Ủy Ban Người Việt Tỵ nạn Hải ngoại yểm trợ Quốc Nội: Ô Nguyễn Tấn Đức.
120. Bút Nhóm Gọi Đàn: Nhà văn Tâm Bền.
121. Nguyệt san Hoài Hương: Minh Nguyệt WA DC.
122. Hội Đồng Liên Tôn: GS Nguyễn Thanh Giàu.
123. Hội Văn hoá Người Việt Philadelphia và vùng phụ cận: Bà Hồng Khương.
124. Ủy Ban Phát Huy & Bảo vệ Chính nghĩa Quốc Gia : Nhân sĩ Lê Ngọc Diệp.
125. Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa Lưu Vong.
126. Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa Hải Ngoại (Vietnamese Legion).
127. Cửu Long Radio cùng chương trình Thiên Ánh Đạo Vàng. (Bảo Tố & Triệu Phổ).
-
Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Bắc California: Ông Mai Khuyên.
129. Thanh niên Đại đạo Cao Đài: Ô Ngô Thiện Đức.
130. Ban Tù Ca Xuân Điềm.
131. LiênHội Cựu Chiến sĩ Nam California: Ô Phan Tấn Ngưu.
132. Đoàn Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu: Ô Lê văn Hiệp.
133. Hội Cựu Quân Nhân Việt Nam Cộng hòa, Vùng Đông Pháp Quốc: Ô Nguyễn Duy Phương.
134. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia ở Thụy Sĩ: Ô Trần Phi.
135. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Ở Pháp: Ô Rémond Deprez.
136. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại CHLB Đức: KS Vũ Duy Toại.
137. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Tiệp Khắc: Ô Nguyễn Hữu Ích.
138. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Thụy Điển: Ô Đoàn văn Thủy.
139. Phong trào Yểm trợ Tự do Tôn giáo và Nhân quyền Canada: Ô Đoàn văn Thùy.
140. Thanh Niên yêu Nước Việt Nam: Nguyễn Khánh (Việt Nam).
141. Lực Lượng Sĩ quan Thủ Đức QLVNCH Bắc California: Ô Nguyễn Minh Đường.
142. Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Tây Bắc Hoa Kỳ: Nhà thơ Hoàng Xuyên Anh.
143. Hội Cao Niên SanDiego: Nhân sĩ Trang Anh Dũng.
144. Câu Lạc Bộ Đồng Hành: Ô Vương Hoàng Minh.
145. Cộng Đồng Người Việt Quốc gia Georgia: Trist Thùy Dương Nguyễn.
146. Vietnamese American Community Oklahoma: Trần văn Hòa.
147. Đoàn Du Tăng Thế Giới: HT Thích Giác Lượng.
148. Ủy ban Canada Yểm trợ Dân chủ, Tự do Tôn giáo Việt Nam: Ls Alain Ouellet
Comité canadien de support a la democratie et liberte religieuse au Vietnam.
149. Cộng Đồng Việt nam Seattle: Ô Trần Trung Dung.
DANH SÁCH CÁC NHÂN SĨ ĐỒNG KÝ TÊN:
1. Thượng Tọa Thích Thiện Minh, cố vấn Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo VN.
-
Linh mục Nguyên Thanh, cố vấn Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo VN.
3. Lê Châu Lộc: Cựu Thượng Nghị sĩ VNCH.
4. Dr Nghiemphu: Cố vấn Chính phủ VNCH.
5. Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện.
6. Hòa Thượng Thích Nhật ban, GH PGVNTN (Việt Nam)
7. Bs Lê Thị Lễ, Hoa Kỳ.
8. Gs Nguyễn Thị Hiền, Thụy Sỉ.
9. Gs Phan Thị Độ, Úc Đại Lợi.
10. Nhân sĩ Huỳnh văn Lang.
11. Nhân sĩ Ngô Văn Xức 85 tuổi USA.
12. Cư sĩ Minh Pháp USA.
13. Nhà báo Thanh Huy, Việt Báo.
14. Nhà báơ Thanh Phong, Sài Gòn Nhỏ.
15. LS Nguyễn Bắc Truyễn (Việt Nam).
16. Nhạc sĩ Lê Quốc Tấn USA.
17. Nhà văn Trần Công Ngự.
18. Nhân sĩ Vũ Khánh Thành, Anh Quốc.
19. Nhân sĩ Việt Nhân, USA.
20. Chiến sĩ Huỳnh Nguyên Đạo.
………………………………..
THE VIETNAMESE POLITICAL AND RELIGIOUS PRISONER FELLOWSHIP ASSOCIATION
12911 Josephine St #D, Garden Grove CA 92841. Email: quocvietanhpham@yahoo.com
Date: March, 05, 2012
A CALL FROM
THE VIETNAMESE POLITICAL AND RELIGIOUS PRISONER FELLOWSHIP ASSOCIATION
Whereas:
-
God gives man the right to life, liberty, and pursuit of happiness that the U.S. Constitution and the civilized world have been affirmed and respected absolutely. The Socialist Republic of Vietnam has signed to comply with the Universal Declaration of Human Rights and the International Covenant on Civil and Political Rights, but it so far has not implemented these agreements.
-
Mankind has entered the third millennium of civilization; everyone has the right to live in peace in a civil society of a true democracy. Freedom of religion, freedom of speech and association, right to possess private properties are intrinsic rights of every human being. In a state ruled by laws, all citizens must have the right to form associations to protect their immediate interests such as wages to survive and support their families. In reality, Vietnamese Communist regime has not respected these rights.
-
Intellectuals, artists, students, and youths are the foundation and the future of the nation. But, the Vietnamese Communist government do not respect and listen to their true aspirations and proposals to build the country. In contrast, the regime has explored tactics of domination, repression, and bribery to use them as tools to serve the Communist Party, a gang of traitors. The Vietnamese regime has suppressed people’s patriotic movements, beaten and arrested patriots such as musician Viet Khang, dissident Pham Thanh Nghien, blogger Ta Phong Tan, and innocent citizen Bui Minh Hang …
-
The purpose of a national army is to defend the country whenever it is in danger or against invasion. But Vietnamese Communist regime is using its People Military as a tool to protect their party, a junta of traitors, not Vietnamese people. Vietnam Fatherland is in danger, likely under threat of invasion of Red China. Ignoring this danger, the gang of traitors-leaders keeps maintaining an inhumane dictatorship and enriching themselves at the cost of people’s sweats, tears and sacrifices.
-
Red China, today with the ambition to dominate and monopolize the Sea of Southeast Asia, has become the new Red Empire. It does not only threaten the survival of the people of Vietnam and other Southeast Asian countries, but it also is a real danger for the whole mankind.
In coping with the threat of invasion by the new red empire of China, for the survival of the Vietnamese people and their fatherland, and the stability of the world’s security.
We, all the Vietnamese patriots, call on:
-
The Socialist Republic of Vietnam must implement the provisions of the Universal Declaration of Human Rights and International Covenant on Civil and Political Rights. The Socialist Republic of Vietnam must truly respect the freedom and all basic human rights of the people.
-
The Socialist Republic of Vietnam must enact laws that should specify the fundamental freedoms of people in a civil society of true democracy. It must respect the right of ownership of properties and land of its people by returning all illegal confiscated lands and properties of the religious organizations. It must respect freedom of religion. The Socialist Republic of Vietnam must respect and treat equally all the organizations of religions. It must dissolve all the state-run labor unions and return the freedom of establishment union to peasants and workers.
-
The Socialist Republic of Vietnam must dissolve all the associations of fake patriotic intellectuals, associations of writers run by the dictatorship government. It must respect intellectuals and return the freedom of creation to artists. The Socialist Republic of Vietnam must respect the autonomy of the university, eliminate the teaching of communism in school and dissolves the Communist Youth Organizations.
-
The Socialist Republic of Vietnam must let its army to perform the lofty sacred duty of defending the country against invasion of Red China. It is the time the Communist Party and the government of the Socialist Republic of Vietnam must put national interests ; Otherwise, the people of Vietnam will boycott, overthrow it by demonstrations on street, and upraise along with patriotic soldiers to regain its sovereignty of the country.
-
The Socialist Republic of Vietnam must release immediately and unconditionally all prisoners of conscience, return lands and properties confiscated illegally to their owners across the country. It must return the country’s power to their people by holding a democratic election under the supervision of the United Nations, forming a Constitutional Congress to draft a Constitution for a new democratic regime.
-
The United States, the civilized countries, the associations and organizations of human rights in the world, please support the people of Vietnam in the struggle against one-party, oppressive, and unjust communist puppet regime, to fulfill the democratic revolution and build a new democratic and progress country and contribute to the protection of its national sovereignty, the prosperity and the security of the world.
THE VIETNAMESE POLITICAL AND RELIGIOUS PRISONER FELLOWSHIP ASSOCIATION
PHAM TRẦN ANH, Chairman
Partial list of the Vietnamese Organizations across the world agreeing with this Call:
1. Vietnamese Political and Religious Prisoner Fellowship Association: Mr Phạm Trần Anh.
2. Hội Nhân sĩ Diên Hồng Thời Đại: Bô lão Võ Toàn.
3. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất: HT Thích Không Tánh (Việt Nam).
4. Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Tuý: Hội Trưởng Lê Quang Liêm (Việt Nam).
5. Khối 8406: LM Phan văn Lợi (Việt Nam).
- Hiệp Hội Thông Công Tin Lành Các Dân tộc Việt Nam, Giáo Hội Liên Hữu
Lutheran Viet Nam & Hoa Kỳ.
7. Cao Đài Giáo Việt Nam: GS Nguyễn Mạnh Bảo (Việt Nam).
8. Nhóm LM Nguyễn Kim Điền: Đại diện LM Phêro Nguyễn Hữu Giải (Việt Nam).
9. Hội Quốc tế Nghiên cứu Biển Đông Nam Á: GS Nguyễn Thanh Liêm.
10. Mặt Trận Dân Tộc Cứu Quốc: Phạm Hưng Quốc.
- Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại: DS Vũ văn Tùng, CT.
12. Đại diện Khối 8406 Hải Ngoại: GS Nguyễn Chính Kết.
- Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Nam California: LS Nguyễn Xuân Nghĩa.
- Ủy Ban Hoà đồng Dân tộc và Tôn giáo: TS Nguyễn Anh Tuấn.
- Liên minh Dân tộc Việt Nam: Nhà văn Chu Tấn.
16. Tổ chức Quốc tế Yểm Trợ Cao Trào Nhân Bản: BS Nguyễn Quốc Quân.
17. Phong Trào Giáo Dân: Ô Cao Viết Lợi.
18. Tổng Hội Cựu Tù nhân Chính Trị Việt Nam: Ô Nguyễn Trung Châu.
19. Hội Nghiên cứu Lịch sử: Nhà bình luận Chu Chi Nam.
20. Phong Trào Phụ Nữ Việt Nam Hành Động Cứu Nước:
Chủ Tịch Bà Đặng Thị Danh, Toronto, Canada .
21 . Phong Trào yểm Trợ Tự do Tôn giáo và Nhân quyền Việt Nam: HT Thích Nguyên Trí.
22. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Âu Châu: Cựu Thẩm phán Trần Đức Lai.
23. Phong trào Đấu tranh Đòi Tự Do Tôn Giáo và Nhân quyền VN: Ô Lại Thế Hùng.
24. Truyền Thông Toàn cầu Global Viet Media: Dr Nghiêm Phú.
25. Coalition of American Citizen For Freedom and Democracy:
BS Nguyễn Hy Vọng
26. Việt Nam Cộng Hòa Foundation: Thiếu Tướng Lý Tòng Bá.
27. Vietnam Helsiki HR Committeee: Ô Trần Tử Thanh.
28. Việt Nam Quốc Dân Đảng Thống Nhất: Ô Lê Sơn Hà, Phó TBT
29. Liên Minh Quang Phục Việt Nam: Nhân sĩ Võ Đại Tôn.
30. Đại Việt Quốc Dân Đảng: TS Phan văn Song.
31. Mặt Trận Việt Nam Tự Do Âu Châu: Ô Trần Minh Chiêu
32. Liên Minh Dân chủ Việt Nam Thuần Túy: Ô Lý Hiền Tài.
33. Đại Việt Cách Mạng Nam California: Ô Nguyên Duy.
34. Đảng Dân chủ Nhân dân: Ô Đỗ Thành Công.
35. Hội Nhân sĩ Diên Hồng Thời Đại Úc Châu: Nhân sĩ Phạm Ngọc Điệp.
36. Hội Nhân sĩ Diên Hồng Thời Đại Bắc California: Nhân sĩ Phạm văn Tường.
37. Hội Nhân Sĩ Diên Hồng Thời Đại Nam California: Học gỉa Vũ Hữu San.
38. Hội Nhân Sĩ Diên Hồng Thời Đại Colorado: Nhân sĩ Trần Trọng Thuyên.
39. Hội Nhân sĩ Diên Hồng Thời Đại Canada: LS Vũ Ngọc Truy.
40. Hội Nhân sĩ Diên Hồng Thời Đại SanDiego: Nhân sĩ Phan Bái.
41. Ủy Ban Phối Hợp chống CS và Tay sai: Nhân sĩ Phan Kỳ Nhơn.
42. Hội Đền Hùng Hải Ngoại: Nhân sĩ Trần Thanh Phong.
43. Cộng đồng Công giáo Nam VN: Ô Nguyễn Thanh Liêm.
44. Các Hội đoàn Trẻ Nam Cali (Tổng Hội Sinh Viên, Ðoàn Thanh Niên Phan Bội Châu, Ðoàn Thanh Niên Thủy Quân Lục Chiến, Ðoàn Thanh Niên Việt-Mỹ, Ðoàn Thanh Niên Cao Ðài, Ðoàn Thanh Niên Phật Tử Miền Quảng Ðức, Ðoàn Thanh Niên Phật tử chùa Ðiều Ngự, Ðoàn Thanh Niên Phật Giáo Hòa Hảo, Giới Trẻ Công Giáo và Liên Ðoàn Học Sinh Trung Học Nam California: Billy Lê.
54. Trung tâm Trưởng /TTĐH/TB/HK: BĐQ/Tr tá Lương văn Ngọ.
55. Trung tâm Trưởng /TTĐH/TN/HK: Ô Trần Vệ.
56. Ủy Ban Bảo Toàn Đất Tổ: Ông Đoàn Thế Cường.
57. Ban Trị sự Trung ương Hải Ngoại, Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo: GS Nguyễn Thành Long.
58. Vietnamese historical researcher association in Europe. : Ô Nguyễn Phúc Bảo Việt.
59. Hội Cựu SV Quốc Gia Hành Chánh Miền Đông Hoa Kỳ: Ô Nguyễn Kim Hương Hỏa.
60. Hội Cựu SV Quốc Gia Hành Chánh Nam Cali: Ông Trần Ngọc Thiệu.
61. Uỷ Ban Vận động CPC: Ông Nguyễn Tấn Lạc.
62. Phong Trào Yểm Trợ Tự Do Tôn Giáo và Nhân quyền VN: LM Đinh Xuân Minh.
63. Vietnamese American Voters Association: Jackie Bong Wright, President.
64. Vietnamese Political and Religious Prisoner Fellowship Association in Europe:
Dr Nguyễn Ngọc Hùng.
65.Vietnamese Political and Religious Prisoner Fellowship Association Austalia:
PCT Đoàn Nguyên Hồng.
66. Vietnamese Political and Religious Prisoner Fellowship Association Cambodia:
Nguyễn Phùng Phong.
67. Vietnamese Political and Religious Prisoner Fellowship Association Thailand:
Lê Thái Lan.
68. Vietnamese Political and Religious Prisoner Fellowship Association, Denmark:
Writer Uyên Hạnh.
69. Vietnamese Political and Religious Prisoner Fellowship Association, South California:
Ô Trương văn Anh.
70. Vietnamese Political and Religious Prisoner Fellowship Association, California:
Dr Phạm Đức Vượng.
71. Vietnamese Community in Cleverland, Ohio: Ông Nguyễn Hữu Lễ.
72. Vietnamese Community Dallas: Mrs Lê Lâm Ngọc.
73. Vietnamese Community in Florida: Ô Lưu văn Tươi.
74. Hội Đồng Việt Nam Tự Do: Ông Phan Như Hữu.
76. Hội Nữ Quân Nhân Nam California: bà Phạm Thị Diệu Chi.
77. Văn Bút Tây Nam Hoa Kỳ: Nhà văn Nguyễn Hữu Của.
78. Diễn Đàn Tự Do Dân Chủ: Ông Nguyễn Duy Nghiêu.
79. Câu Lạc Bộ Dân Chủ Tự Do: Ông Nguyễn Cao Nguyên.
80. Ủy Ban Tự Do Tôn Giáo: Ông Phạm Đức Hậu.
81. Hội Cử Tri Việt Mỹ Nam Cali: Ông Hoa Thế Nhân.
82. Hội Đồng Hương Biên Hòa: Bà Duyên Trang.
83. Hội Nữ Quân Nhân Nam Cali: Bà Phạm Diệu Chi.
84. Ái Hữu Quốc Gia Nghĩa Tử: Ông Ngô Chí Thiềng.
85. Cộng Đồng Riverside: Nhân sĩ Phan Đa Văn.
86. Tổng đoàn Thanh niên Phật giáo Hòa Hảo: Ô Trương văn Đức.
87. Câu Lạc bộ Thi văn Tao Đàn Hải ngoại: Nhà thơ Vũ Lang.
88. Câu Lạc Bộ Tình Nghệ sĩ: NS Cao Minh Hưng.
89. Chiến sỹ Nguyễn Thị Ngọc Hạnh (Sáng lập viên PTPNVNHĐCN) France.
90. Hội Hải Quân & Hàng Hải Trần Quang Khải, Philadelphia và phụ cận:
Hội Trưởng Nguyễn Tạ Quang.
91. Ban Tư Vấn 8406: Ô Nguyễn Thanh Hùng.
92. Tiếng Nói Giáo dân: Bà Trần Thanh Hiền.
93. Bạch Đằng Giang Founation: Dương Hồng Thẩm, Việt Nam.
94. Thanh Niên Việt Nam Yêu Nước: Nguyễn Khánh, Việt Nam.
95. Hội Đồng Hương và Thân Hữu Thái Bình: Bà Đào Bích Ty.
96. Hội Đồng Hương Ban Mê Thuột : Ô Nguyễn Xuân Kế.
97. Diễn Đàn Văn Hiến Việt Nam: Nam Phong.
98. Vietnamtomorrow Foundation: Phạm Trần Quốc Việt.
99. Tổ chức Bạch Đằng Giang: Nguyễn Đức Vinh.
- Báo Thời Luận: Nhà văn Đỗ Tiến Đức.
101. Điện Báo Ánh Dương: Bà Đỗ Thị Thuấn.
102. Diễn Đàn Người Dân Việt Nam: Minh Đức.
103. Khối 8406 Nam California: Ô Vũ Hoàng Hải, Tư vấn.
104. Hội Đồng Hương Quảng Nam Đà Nẵng WA: Đinh Hùng Chấn: Hội Trưởng.
105. Phân Khu Hội Cựu TNCTVN Tacoma WA: Ông Cao Hữu Thiên.
106. Ái Hữu Thiếu Sinh Quân Sandiego: Ô Vũ Ngọc Mỹ.
107. Cộng Đồng Người Việt Quốc gia Nam Cali: Ô Trần văn Thắng.
CT Ủy ban Thường vụ HĐ Giám sát.
108. Cộng Đồng Việt Nam SanDiego: Ô Nguyễn văn Lực.
109. Gia đình Phật Tử An lạc Phụng Sự: Cư sĩ Hoàng văn Phong.
110. Tạp san Đồng Nai Cửu Long: Ô Vương Huê.
111. Cộng Đồng Việt Nam Los Angeles : Nhân sĩ Nguyễn văn Cừ.
112. Gia Đình Phật Tử Miền Quảng Đức : Tâm Hòa Lê Quang Dật.
113. Hội Đồng Hương Bạc Liêu: Ô Hứa Trung Lập.
114. Nguyệt san Diễn Đàn Giáo Dân: nhà báo Trần Phong Vũ
115. Hội Phụ Nữ Nhân Ái Thiện Nguyện Nam Cali HK: Bà Hồng Lan.
116. Liên Hội Cựu Chiến Sĩ SanDiego: Ô Hoàng văn Nhạn.
117. Lực Lượng Thanh niên Việt Nam Âu Châu: Ô Lý Minh Thuận.
118. Nghị viện Người Việt Tỵ nạn CS ở Âu Châu: Ô Cao Tấn Hưng.
119. Ủy Ban Người Việt Tỵ nạn Hải ngoại yểm trợ Quốc Nội: Ô Nguyễn Tấn Đức.
120. Bút Nhóm Gọi Đàn: Nhà văn Tâm Bền.
121. Nguyệt san Hoài Hương: Minh Nguyệt WA DC.
122. Hội Đồng Liên Tôn: GS Nguyễn Thanh Giàu.
123. Hội Văn hoá Người Việt Philadelphia và vùng phụ cận: Bà Hồng Khương.
124. Ủy Ban Phát Huy & Bảo vệ Chính nghĩa Quốc Gia : Nhân sĩ Lê Ngọc Diệp.
125. Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa Lưu Vong.
126. Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa Hải Ngoại (Vietnamese Legion).
127. Cửu Long Radio cùng chương trình Thiên Ánh Đạo Vàng. (Bảo Tố & Triệu Phổ).
- Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Bắc California: Ông Mai Khuyên.
129. Thanh niên Đại đạo Cao Đài: Ô Ngô Thiện Đức.
130. Ban Tù Ca Xuân Điềm.
131. LiênHội Cựu Chiến sĩ Nam California: Ô Phan Tấn Ngưu.
132. Đoàn Thanh Niên Việt Nam Tự Do Âu Châu: Ô Lê văn Hiệp.
133. Hội Cựu Quân Nhân Việt Nam Cộng hòa, Vùng Đông Pháp Quốc: Ô Nguyễn Duy Phương.
134. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia ở Thụy Sĩ: Ô Trần Phi.
135. Vietnamese Community in France: Mr Rémond Deprez.
136. Vietnamese Community in Germany: Mr Vũ Duy Toại.
137. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Tiệp Khắc: Ô Nguyễn Hữu Ích.
138. Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Thụy Điển: Ô Đoàn văn Thủy.
139. Phong trào Yểm trợ Tự do Tôn giáo và Nhân quyền Canada: Ô Đoàn văn Thùy.
140. Thanh Niên yêu Nước Việt Nam: Nguyễn Khánh (Việt Nam).
141. Lực Lượng Sĩ quan Thủ Đức QLVNCH Bắc California: Ô Nguyễn Minh Đường.
142. Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Tây Bắc Hoa Kỳ: Nhà thơ Hoàng Xuyên Anh.
143. Hội Cao Niên SanDiego: Nhân sĩ Trang Anh Dũng.
144. Câu Lạc Bộ Đồng Hành: Ô Vương Hoàng Minh.
145. Cộng Đồng Người Việt Quốc gia Georgia: Trist Thùy Dương Nguyễn.
146. Vietnamese American Community Oklahoma: Trần văn Hòa.
147. The World Itinerant Monk Congregation: Most. Ven Thich Giac Luong.
148. Comité canadien de support a la democratie et liberte religieuse au Vietnam
Ủy ban Canada Yểm trợ Dân chủ, Tự do Tôn giáo Việt Nam: Ls Alain Ouellet.
149. Vietnamese Community in Seattle, Washington State: Mr Trần Trung Dung.
DANH SÁCH CÁC NHÂN SĨ ĐỒNG KÝ TÊN:
1. Thượng Tọa Thích Thiện Minh, cố vấn Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo VN.
- Linh mục Nguyên Thanh, cố vấn Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị và Tôn Giáo VN.
3. Lê Châu Lộc: Cựu Thượng Nghị sĩ VNCH.
4. Dr Nghiemphu: Cố vấn Chính phủ VNCH.
5. Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện.
6. Hòa Thượng Thích Nhật ban, GH PGVNTN (Việt Nam)
7. Bs Lê Thị Lễ, Hoa Kỳ.
8. Gs Nguyễn Thị Hiền, Thụy Sỉ.
9. Gs Phan Thị Độ, Úc Đại Lợi.
10. Nhân sĩ Huỳnh văn Lang.
11. Nhân sĩ Ngô Văn Xức 85 tuổi, cựu tù nhân Lương Tâm USA.
12. Cư sĩ Minh Pháp USA.
13. Nhà báo Thanh Huy, Việt Báo.
14. Nhà báơ Thanh Phong, Sài Gòn Nhỏ.
15. LS Nguyễn Bắc Truyễn (Việt Nam).
16. Nhạc sĩ Lê Quốc Tấn USA.
17. BS Huỳnh Trung Đạo, Tù nhân Lương Tâm Thái Lan.
18. Chu Vũ Ánh, Hội Quốc Tế Nghiên Cứu Biển Đông Nam Á, Pháp Quốc.
19. Nhà văn Trần Công Ngự.
20. Nhân sĩ Vũ Khánh Thành, Anh Quốc.
21. Nhân sĩ Việt Nhân, USA.
…………………………………………………………………………………………….
BA MƯƠI B ẢY NĂM “NGÀY QUỐC HẬN”
NHÌN LẠI CUỘC CHIẾN VIỆT NAM: AI THẮNG AI?
Ba mươi sáu năm đã trôi qua nhưng chúng ta vẫn canh cánh bên lòng nỗi buồn “Mất nước” để toàn dân Việt sống trong lầm than thống khổ, còn chúng ta vẫn sống đời lưu vong trên xứ sở tạm dung này. Đã đến lúc, chúng ta cùng bình tâm nhìn lại lịch sử để từ đó sẽ có một nhận định toàn diện và đúng đắn về cuộc chiến Việt Nam. Từ những sự thật lịch sử, chúng ta mới nhận thức rõ về hoàn cảnh của đất nước Việt Nam và chúng ta phải làm gì để đưa dân tộc Việt vượt qua cơn khổ nạn để sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới.
Sau hiệp định Patenôtre 1884, thực dân Pháp chính thức đặt ách đô hộ trên đất nước thì nhân dân Việt Nam đã liên tiếp đứng lên chiến đấu giành độc lập dân tộc. Đất nước chúng ta chưa thoát khỏi sự đô hộ của thực dân Pháp thì đảng CSVN lại đưa dân tộc Việt vào cuộc chiến tranh ý thức hệ, đối đầu giữa CS và tư bản khiến hàng triệu người dân Việt đã phải hy sinh. Đảng CSVN đã núp dưới danh nghĩa Việt Minh với chiêu bài kháng chiến để lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân đánh đuổi thực dân Pháp để nhuộm đỏ đất nước Việt Nam. Nếu lấy mốc lịch sử kể từ cái gọi là “Ngày Toàn quốc kháng chiến” 16 tháng 12 năm 1946 cho tới thời điểm Trung Công và Liên Sô công nhận nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tháng 1 năm 1950 thì chúng ta có thể tạm gọi cuộc chiến Việt Nam là cuộc chiến giành độc lập Dân tộc.
Sau khi Trung Cộng công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo ngày 14-1-1950) thì ngày 31-1-1950, Liên Sô công nhận nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Trước hiểm họa Cộng Sản xâm lược Đông Dương và bành trướng xuống Đông Nam Á, Hoa Kỳ và Anh Quốc công nhận Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại ngày 7-2-1950, cuộc chiến đã chuyển sang một thời kỳ lịch sử mới: cuộc chiến ý thức hệ đối đầu giữa 2 ý thức hệ Tư Bản và Cộng sản chứ không còn là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nữa, mặc dù cộng sản vẫn tuyên truyền rêu rao là “giải phóng dân tộc” là “chống Mỹ cứu nước”.
Chính vì vậy, chúng ta phải hiểu rõ bản chất của cuộc chiến hay nói cách khác, hiểu rõ ý đồ của các thế lực quốc tế toan tính những gì trên xương máu mồ hôi và nước mắt của toàn dân Việt Nam chúng ta mới thấy rõ toàn bộ vấn đề. Như vậy kể từ tháng 1 năm 1950, cuộc chiến Việt Nam không còn thuần túy là cuộc kháng chiến chống Pháp nữa mà đã chuyển sang cuộc chiến tranh ý thức hệ mà ta thường gọi là chiến tranh lạnh giữa 2 khối tư bản và Cộng sản. Đây là một sự thật lịch sử về bản chất của cuộc chiến Việt Nam mà từ trước đến nay chúng ta mỗi người hiểu một cách. Thật vậy, đồng bào miền Bắc nhất là các đảng viên đoàn viên bị nhồi nhét tuyên truyền “Bác Hồ” là người yêu nước và đảng Cộng sản Việt Nam có công giành lại độc lập từ tay thực dân Pháp. Đồng bào trong Nam thì hiểu là cuốc chiến tranh ý thức hệ ngăn chặn làn sóng đỏ, còn đa số quần chúng nhân dân thì hiểu đơn giản là cuộc nội chiến Nam Bắc tương tàn. Thật vậy, đối với quần chúng và nhất là giới nghệ sĩ thì đó là một cuộc nội chiến tương tàn “Ba mươi năm nội chiến từng ngày …” nồi da xáo thịt “Người chết hai lần … thịt da nát tan …!” khiến 4 triệu đồng bào Việt Nam ở miền Bắc đã hi sinh cho một cuộc chiến vô nghĩa như các nhà văn từng sống trong chế độ Cộng sản đã phải ngao ngán viết lên những sự thật phũ phàng của cái gọi là “Chống Mỹ Cứu nước …!
THỰC CHẤT CỦA CUỘC CHIẾN VIỆT NAM
Chúng ta đã thất rõ hậu qủa của cuộc chiến đối với dân tộc Việt Nam nhưng một vấn đề quan trọng nữa được đặt ra là “Thực chất” của cuộc chiến tranh Việt Nam là gì?. Nói cách khác, các phe tham chiến ở VN mưu đồ tính toán những gì trên xương máu của nhân dân Việt Nam?
ĐỐI VỚI LIÊN SÔ
Đối với Liên Sô thì ngoài mục đích bành trướng chủ nghĩa CS, họ còn dùng chiến tranh Việt Nam để tiêu hao sinh lực “đế quốc” Mỹ cho đến “người Việt Nam cuối cùng” trong cuộc chạy đua vũ trang giành quyền bá chủ thế giới. Trong nhiều năm dài, điện Kremli luôn luôn phủ nhận việc Liên Sô có quân đội tham chiến tại Việt Nam. Mãi đến khi Liên bang Sô viết sụp đổ vào năm 1991, giới chức Nga mới công nhận là có hơn 3.000 quân Liên Sô tham gia trận chiến chống quân đội Mỹ tại Việt Nam trước đây. Tướng Vladimir Abramov được giao nhiệm vụ chỉ huy các sĩ quan và binh lính Sô Viết trong vùng Đông Nam Á. Việc lắp ráp hoả tiễn, radar và huấn luyện là do các chuyên gia Liên Sô chuyên gia về hậu cần, chuyên gia về hải quân, chuyên gia về tên lửa, chuyên gia về không quân, về các loại binh chủng … Theo báo Russia Today, các chuyên gia Sô Viết đã đóng vai trò trọng yếu trong việc huấn luyện các lực lượng Bắc Việt Nam, và tên lửa Sô Viết gây thiệt hại nặng cho các phi cơ Mỹ. Nikolay Kolesnik phát biểu trên báo Russia Today “Chúng tôi chỉ được coi là chuyên gia quân sự Nga. Cấp chỉ huy thì mang danh là chuyên gia cao cấp nhưng chúng tôi là binh sĩ Liên Sô. Chúng tôi làm tất cả để ngăn các cuộc không kích”.
ĐỐI VỚI TRUNG CỘNG
Đối với Trung Cộng thì chủ trương cố hữu của các triều đại Hán tộc xưa và Trung Cộng ngày nay là xâm chiếm Việt Nam bằng mọi giá để mở đường xuống Đông Nam Á. Ý đồ chiến lược của Trung Cộng là chiếm đóng khu vực này để khống chế eo biển Mallacca, kiểm soát toàn bộ lộ trình huyết mạch của Trung Quốc cũng như các nước khác có quyền lợi sinh tử ở Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Mao Trạch Đông đã công khai tuyên bố trắng trợn ý đồ xâm chiếm Việt Nam: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả Miên, Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore. Việt Nam là bàn đạp tiến xuống phía Nam, chúng ta phải chiếm cho bằng được …”. Đế quốc mới TC còn ngang nhiên vẽ bản đồ Trung Quốc bao gồm nhiều nước chung quanh kể cả Đông Nam Á và biển Đông với “Lưỡi Bò” độc chiếm Biển Đông Nam Á.
Sự thật lịch sử đã chứng minh rằng có mặt của 300.000 hồng quân Trung Cộng đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ 1953 cũng như xâm chiếm miền Nam Việt Nam. Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tức Trung Cộng đã công bố sự thật như sau: “ Trong giai đoạn giúp Việt chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc đã vì Việt Nam mà đóng góp không biết bao nhiêu tài lực, nhân lực, vật lực, pháo binh, công binh, nhân viên đường sắt, nhân viên thư tín, hải quân, không quân, hậu cần vận tải … 16 chi đội (trong quân sự TRUNG QUỐC tương đương với trung đoàn, hoặc sư đoàn), hơn 30 vạn người ở Việt Nam trong hơn 3 năm 9 tháng đấu tranh. Tác chiến đối không 2153 lần, bắn rơi 1707 máy bay Mỹ, bắt sống 42 phi công Mỹ, viện trợ Việt Nam xây dựng Hải Phòng, Hòn Gai, các thành phố duyên hải và xây dựng hệ thống phòng ngự ở tam giác châu thổ sông Hồng, tu sửa và xây dựng các tuyến đường huyết mạch, sân bay, tuyến đường sắt đông tây, mở đường trên biển và chi viện cho đường mòn Hồ Chí Minh. Từ năm 1950 đến năm 1978, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam hơn 200 tỷ mỹ kim, và trong đó đến 93% là viện trợ không hoàn lại, đó là chưa kể xương máu mà 1446 chiến sỹ đã hy sinh, 4200 người trọng thương… những hy sinh đó tuyệt đối không thể tính bằng tiền“. Bắc Triều Tiên đến 2001 mới thừa nhận họ cũng đưa 200 phi công Bắc Hàn đã trực tiếp chiến đấu bảo vệ Hà Nội trong các đợt tấn công của Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam. Tháng Bảy 2001 Bình Nhưỡng và Hà Nội mới bốc mộ những phi công Bắc Hàn tử trận tại Việt Nam về Bắc Hàn.
Theo các tài liệu mới được công bố thì cuộc chiến tranh chống Pháp được Trung Quốc chỉ đạo trực tiếp từ chính trị tới quân sự. La Quý Ba đại diện của đảng CSTQ làm cố vấn chính trị cho Đảng CSVN và tướng Trần Canh làm cố vấn quân sự. Mọi kế hoạch đều do Trần Canh vạch ra và chỉ đạo trực tiếp. Ngày 02/07/1950, Mao Chủ Tịch gửi điện trả lời Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam:“Đồng ý ý kiến đánh Cao Bằng trước, phương án tác chiến cụ thể đối với Cao Bằng, chờ sau khi Trần Canh đến, do các đồng chí quyêt định cuối cùng….”. Tài liệu này đã xác nhận một sự thật lịch sử là Trần Canh chính là nhân vật quyết định tối hậu về chiến tranh Việt Nam, không phải Võ Nguyên Giáp cũng không phải Hồ chí Minh. Dĩ nhiên, Mao Trạch Đông là lãnh tụ cao nhất. Quân Ủy và Bộ Chính Trị Trung Cộng giữ vai trò chỉ đạo từ Bắc Kinh. La quý Ba kể thêm về sự khẩn nài của Hồ Chí Minh như sau:“Mùa đông năm 1951, Hồ Chí Minh một lần nữa bí mật đến Bắc Kinh thăm Trung Quốc.Trong trao đổi, Hồ chí Minh hỏi Mao Chủ Tịch:“Bộ Chính Trị Trung Ương chúng tôi yêu cầu đồng chí La Quý Ba khi tham gia hội nghị Bộ Chính Trị Trung Ương chúng tôi nêu nhiều ý kiến về các mặt công tác của chúng tôi, giúp đỡ nhiều cho chúng tôi. Nhưng đồng chí quá thận trọng, quá khiêm tốn. Tôi mong các đồng chí giao cho đồng chí ấy nêu nhiêu ý kiến. Mao Chủ Tịch, các đồng chí có đồng ý không?”. Sự kiện này xác nhận một lần nữa vai trò của La Quý Ba chỉ đạo bộ chính tri của đảng CSVN. Một sự thật lịch sử về sự chỉ đạo, quyết định của Mao Trạch Đông được La Quý Ba thừa nhận là “Dù là điện của Trần Canh, Vi Quốc Thanh và tôi xin chỉ thị của Mao Chủ Tịch, Trung Ương Đảng hay chỉ thị của Mao Chủ Tịch, Trung Ương đảng đối với chúng tôi, dù là bức điện về mặt tác chiến (như chiến dịch Biên Giới, chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch Tây Bắc. v.v..) xây dựng bộ đội và huấn luyện bộ đội, hay là những bức điện vấn đề quan trọng về mặt xây dựng tư tưởng và xây dựng tổ chức của Đảng, công tác tài chính kinh tế, công tác cải cách ruộng đất, viện trợ quân sự, viện trợ tài chính kinh tế và công tác công an, tình báo, dân tộc thiểu số… Mao Chủ Tịch đều đích thân phê duyệt, sửa chữa, ký cho chuyển đi, trong đó có những bức điện đặc biệt quan trọng, Mao Chủ Tịch tự khởi thảo, khi trả lời các bức điện của Hồ Chí Minh, Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam trưng cầu ý kiến Trung Ương Đảng hoặc các bức điện quan trọng của Mao Chủ Tịch, Trung Ương Đảng nêu ý kiến hoặc kiến nghị với Hồ Chí Minh…”.
Sự thật lịch sử này đã phơi bầy rõ ràng Đảng CSVN trên thực tế là một chi bộ của đảng CSTQ, cánh tay nối dài của Trung Cộng để thực hiện ý đồ xâm chiếm VN và các nước Đông Nam Á. Sự thật lịch sử này được một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao TQ phát biểu như sau: “Những vòng hoa nơi này là của người Việt Nam mang đến, người dân nơi đây rất kính trọng các liệt sỹ của chúng ta. Trong giai đoạn giúp Việt chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc đã vì Việt Nam mà đóng góp không biết bao nhiêu tài lực, nhân lực, vật lực, pháo binh, công binh, nhân viên đường sắt, nhân viên thư tín, hải quân, không quân, hậu cần vận tải … 16 chi đội (1 chi đội trong quân sự TRUNG QUỐC tương đương với trung đoàn, hoặc sư đoàn), hơn 30 vạn người ở Việt Nam trong hơn 3 năm 9 tháng đấu tranh. Tác chiến đối không 2153 lần, bắn rơi 1707 máy bay Mỹ, bắt sống 42 phi công Mỹ, viện trợ Việt Nam xây dựng Hải Phòng, Hòn Gai, các thành phố duyên hải và xây dựng hệ thống phòng ngự ở tam giác châu thổ sông Hồng, tu sửa và xây dựng các tuyến đường huyết mạch, sân bay, tuyến đường sắt đông tây, mở đường trên biển và chi viện cho đường mòn Hồ Chí Minh. Từ năm 1950 đến năm 1978, TQ đã viện trợ cho Việt Nam hơn 200 tỷ mỹ kim, và trong đó đến 93% là viện trợ không hoàn lại, đó là chưa kể xương máu mà 1446 chiến sỹ đã hy sinh, 4200 người trọng thương… những hy sinh đó tuyệt đối không thể tính được bằng tiền”. Một câu hỏi được đặt ra cho tất cả những người Việt Nam yêu nước là tại sao các nước bị thực dân cai trị đã lần lượt được trả tự do ngay từ thập niên 1950, trong khi dân tộc Việt lại bị đưa vào cuộc chiến tranh ý thức hệ để gần một chục triệu người dân vô tội phải hy sinh một cách oan uổng, hàng chục triệu gia đình Việt Nam ly tán và cho đến ngày nay, đất nước Việt Nam nghèo nàn chậm tiến nhất thế giới? Chính Hồ Chí Minh, cán bộ của đệ tam quốc tế CS đã rước voi về giầy mả Tổ, đưa dân tộc Việt vào một cuộc chiến tương tàn khốc liệt. Đảng CSVN và cá nhân Hồ Chí Minh chính là tội đồ của dân tộc Việt Nam.
ĐỐI VỚI HOA KỲ VÀ CÁC NƯỚC TỰ DO
Hoa Kỳ và các nước Tây phương nhận thấy hiểm họa to lớn khi “Siêu đế quốc” Liên Sô kết hợp với “Siêu bành trướng” Trung Cộng sẽ là mối nguy cho toàn thể nhân loại. Chính vì vậy, sau Hiệp định Genève Hoa Kỳ đã chính thức thay thế Pháp trong cuộc chiến đối đầu với cộng sản để thử nghiệm các loại vũ khí mới, đồng thời phân hoá Liên Sô và Trung Cộng hầu giảm bớt nguy cơ CS nhuộm đỏ Đông Nam Á. Sau chuyến ngoại giao bóng bàn và Hội nghị Trung Nam Hải giữa Nixon và Mao Trạch Đông, Trung Cộng đã mật ước với Hoa Kỳ nên người Đồng minh Hoa Kỳ đã làm ngơ khi Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa như một món qùa cho sự giao hảo giữa hai nước. Sự việc không chỉ ngưng ở đó, người bạn đồng minh của chúng ta còn bật đèn xanh cho CSVN xâm chiếm miền Nam …! Đây là bài học lịch sử đầy máu và nước mắt cho những ai còn tin vào “tình nghĩa đồng minh” mà phải luôn nhớ rằng nỗ lực tự thân mới là yếu tố chính để sống còn. Chính tập đoàn cố vấn chính trị của đại học Michigan đã khuyến cáo TT Carter rằng “Ngày nay, TQ đã là đồng minh của chúng ta, nhưng cúng ta luôn nhớ rằng, đồng minh không có nghĩa là người bạn tốt”. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta phủ nhận những gì Hoa Kỳ đã giúp chúng ta nhưng chúng ta phải thấy một điều là chính quyền Nixon thời đó đang khốn đốn vì vụ Nghe lén “Watergate” và một khi đã kéo TQ về đồng minh với Hoa Kỳ thì người Mỹ đã đạt mục tiêu chiến lược của họ là phân hóa hàng ngũ CS, tách TC ra khỏi Liên Sô nên Hoa Kỳ đã áp dụng một chiến lược toàn cầu mới là xoá bỏ thế cân bằng chiến lược cũ để xây dựng một chiến lược toàn cầu mới: Bằng mọi giá rút chân ra khỏi VN, dùng tiền viện trợ cho VN dành cho Do Thái ở Trung Đông để dồn hết nỗ lực vào việc đối phó với Liên Sô. Đối với người Mỹ thì họ luôn luôn quý trọng “Thiên Chúa” và Dollars nhưng khi cần thiết thì họ đặt Dollars trên hết nên người Mỹ rất thực dụng. Chúng ta thử làm một con tính thì sẽ thấy rõ vấn đề. Mỗi năm Hoa Kỳ viện trợ cho VNCH khoảng 20 tỉ mỹ kim, trong khi Liên Sô chi viện cho Hà Nội chỉ 1 tỉ mỹ kim. Như thế, Hoa Kỳ mất đi 19 tỉ mỹ kim để cạnh tranh vũ khí với Liên Xô nên người bạn đồng minh Việt Nam hoá chiến tranh để hoá giải ý đồ làm suy giảm tiềm lực của CS Liên Sô. Nhờ vậy, năm 1981, chỉ với 11 tỉ Mỹ Kim, Hoa Kỳ đã chế tạo thành công phi thuyền con thoi vượt trội hơn CS Liên Sô trong lãnh vực không gian, sau đó cái gọi là Cộng Hòa Liên Bang Sô Viết đã tan rã không kèn không trống và chủ nghĩa Cộng Sản bị vứt bỏ vào thùng rác của lịch sử nhân loại…(1)
AI ĐƯA DÂN TỘC VIỆT
VÀO CUỘC CHIẾN TRANH Ý HỆ TƯƠNG TÀN?
Chính Hồ Chí Minh, tội đồ của dân tộc đã “Rước voi Liên Sô về giầy mả Tổ Hùng Vương”, “Cõng rắn độc Trung Cộng về cắn gà nhà Dân tộc”. Nguyễn Tất Thành sau này đổi tên là Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy rồi Hồ Chí Minh là người Việt Nam theo cộng sản đầu tiên khi sang Pháp năm 1911, rồi sang các nước Phi Châu, Âu Châu, Nam Mỹ, Hoa Kỳ và Anh Quốc. Năm 1917, trở về Pháp hoạt động với tư cách đảng viên đảng xã hội Pháp và theo Luật sư Phan văn Trường, chí sĩ Phan Chu Trinh và những trí thức VN yêu nước chân chính chống thực dân Pháp ngay trên đất Pháp. Những trí thức này sống ngay trên đất Pháp nên không thể xuất hiện công khai nên lấy một tên chung là Nguyễn Ái Quốc để viết báo chống thực dân Pháp. Nguyễn Tất Thành được hướng dẫn học tập rồi được giao nhiệm vụ tuyên truyền vận động công khai chống Pháp với tên Nguyễn Ái Quốc. Năm 1919, gia nhập Đệ tam quốc tế CS tại đại hội Toulouse Pháp. Năm 1920, Nguyễn Tất Thành lợi dụng cái tên Nguyễn Ái Quốc trong sinh hoạt của đảng Xã Hội để trở thành một trong những sáng lập viên của đảng Cộng sản Pháp. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc nhận lệnh sang Nga học tập về tổ chức cách mạng. (1)
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân phiệt Nhật đảo chánh hất chân thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương. Ngày 11 tháng 3, vua Bảo Đại chính thức tuyên bố độc lập, ngày 17 tháng 4 nhà vua mời học gỉa Trần trọng Kim thành lập chính phủ nhưng không có quân đội nên không giải quyết được vấn đề cấp bách lúc đó. Tình hình thế giới biến chuyển bất ngờ thuận lợi cho công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Ngày 6 tháng 8, Hoa Kỳ thả bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima, ngày 9 tháng 8, thành phố Nagasaki cũng bị bom nguyên tử khiến ngày 10 tháng 8 năm 1945, Nhật hoàng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Ngay khi Nhật đầu hàng, nhà vua Bảo Đại đã gửi điện văn tới nguyên thủ các nước đồng minh nhưng không được hồi đáp. Các đảng phái quốc gia lúc đó bao gồm thành phần trung lưu trong xã hội chỉ biết chờ đợi các lãnh tụ trở về, các lãnh tụ thì lại chờ quyết định của Quốc Dân Đảng Trung Hoa nên không thu phục được lòng tin của quần chúng nhân dân vốn đã chịu hơn ngàn năm nô lệ giặc Tàu. Trong khi đó, Quốc tế CS đã nắm bắt thời cơ chỉ thị thành lập Đảng CS Đông Dương để bành trướng chủ nghĩa cộng sản. Để che giấu bộ mặt thật CS và lấy niềm tin của quần chúng yêu nước, Hồ Chí Minh đã ra lệnh giải tán đảng CS Đông Dương ngày 11-11-1945 và thành lập Hội Nghiên cứu Mác Xít. Ngày 16-3-1951, thành lập đảng Lao Động để che giấu bộ mặt thật CS không được quần chúng tín nhiệm để lãnh đạo phong trào Việt Minh chống Pháp. Hồ Chí Minh do sự chỉ đạo của quốc tế CS, nắm được thời cơ quân phiệt Nhật đầu hàng lại khéo vận dụng lòng yêu nước của nhân dân dưới chiêu bài Việt Minh chống thực dân Pháp giành độc lập dân tộc và nhất là Cộng sản Việt Nam biết lợi dụng sự thống khổ của quần chúng nhân dân sau nạn đói kinh hoàng, kích động lôi kéo thành phần bần cố nông vô sản vào hàng ngũ cộng sản với hứa hẹn một “Thiên đường CS” trên trần gian trong đó không có cảnh người bóc lột người, mọi người đều bình đẳng như nhau, làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu….
Nhận được chỉ thị của quốc tế cộng sản, đảng Cộng sản Đông Dương tiến hành tổng khởi nghĩa. Lợi dụng cuộc biểu tình của Tổng hội Giáo chức công chức Hà Nội tuần hành qua đường phố ngày 17-8 để ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, cán bộ cộng sản trà trộn vào hàng ngũ biểu tình hô khẩu hiệu kêu gọi nhân dân nổi lên cướp chính quyền. Cuộc biểu tình của công chức biến thành của Việt Minh trong sự ngỡ ngàng của các đảng phái quốc gia lúc đó còn đang trông chờ lãnh tụ bên Trung Hoa trở về. Sáng hôm sau, ngày 18 tháng 8, Việt Minh xách động quần chúng yêu nước biểu tình bao vây Bắc Bộ phủ yêu cầu Khâm sai Phan Kế Toại từ chức. Ngày 19 tháng 8, một cuộc biểu tình lớn được tổ chức tại nhà hát lớn Hà Nội, cán bộ Việt Minh xách súng lên cướp diễn đàn, hô to khẩu hiệu và giương cao cờ đỏ sao vàng. Quần chúng sục sôi lòng yêu nước rồi dưới sự xách động của Việt Minh, từng đoàn người kéo nhau đi chiếm đóng các cơ sở chính quyền của thực dân Pháp. Vi ệc cướp chính quyền thành công quá bất ngờ đến nỗi mãi đến ngày 22 tháng 8, mặt trận Việt Minh mới chính thức xuất hiện tại Hà Nội và Sài Gòn. Việt Minh gửi điện văn thông báo với triều đình Huế là họ đã cướp được chính quyền nên yêu cầu vua Bảo Đại xin hãy vì nền độc lập của nước nhà, xin Ngài thoái vị. Vua Bảo Đại trước tình hình biến chuyển bất ngờ đã đặt quyền lợi dân tộc lên trên quyền lợi cá nhân và dòng họ nên đã chính thức tuyên chiếu thoái vị. Nhận được tin vua Bảo Đại thoái vị, ngày 23 tháng 8, Hồ Chí Minh mới thành lập chính phủ lâm thời. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh từ chiến khu về đọc cái gọi là “Tuyên ngôn Độc lập” tại quãng trường Ba Đình. (2)
BỘ MẶT THẬT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Từ trước tới nay, Cộng sản Việt Nam vẫn thường rêu rao họ chiến đấu để giải phóng dân tộc, giành lại độc lập dân tộc. Tất cả đã được phơi bầy khi Liên Xô và Trung Cộng công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Cộng sản Việt Nam là nhà nước Công-Nông, là thành trì của Xã hội chủ nghiã đầu tiên ở Đông Nam Á vào tháng 1 năm 1950. Chính vì vậy, tháng 2 năm 1950, Hoa Kỳ, Anh, Pháp đã nhân danh thế giới tự do trực tiếp can thiệp vào cuộc chiến ở Việt Nam. Nhân dân Việt Nam lâm vào thế trên đe dưới búa của một cuộc chiến tranh giữa 2 thế lực tư bản và cộng sản mà kết cục bi thảm là mấy triệu đồng bào Việt Nam đã hi sinh một cách vô nghĩa hết sức phi lý. Thực tế lịch sử đã chứng minh hùng hồn là thế kỷ XX là thế kỷ chấm dứt chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Bằng chứng cụ thể là Hoa Kỳ tự ý trả lại chủ quyền cho Phi Luật Tân (Philippine) năm 1946, Anh Quốc thừa nhận nền độc lập của Ấn Độ năm 1947, Hoà Lan giao trả độc lập cho Nam Dương (Indonesia) năm 1949 mà không phải hy sinh một ngươì dân nào. Thế thì tại sao, nhân dân Việt Nam phải hy sinh hàng triệu người để giành độc lập dân tộc? Đó chính là cốt lõi của vấn đề mà bất cứ ai cũng nhận thấy sau khi phân tích cụ thể rõ ràng. Chính vì Hồ Chí Minh là cán bộ đệ tam Quốc tế cùng với những Trần Phú, Lê Hồng Phong … đã rước voi Mác-Lê về giầy mả Tổ Hùng Vương, cõng rắn Trung Cộng về cắn gà nhà dân tộc! Cộng sản Việt Nam đã lợi dụng lòng yêu nước, dưới chiêu bài “Kháng chiến, giải phóng dân tộc” hy sinh hàng triệu người dân vô tội để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản xuống Đông Nam Á.
Lịch sử một lần nữa lại chứng tỏ CSVN là tập đoàn Việt gian bán nước khi Phạm văn Đồng xác nhận bằng văn bản chủ quyền của Trung Cộng đối với quần đảo Hoàng Sa năm 1958 và lịch sử cũng chứng minh Việt gian CS là công cụ của quốc tế CS khi hy sinh công cuộc kháng chiến để ký kết hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 theo chỉ thị của Bắc Kinh. Thật vậy, giữa lúc cao trào kháng chiến dâng lên cao, thực dân Pháp bị lâm vào thế bí dẫn đến sự thất bại hoàn toàn về quân sự thì CSVN bị áp lực của quốc tế CS phải vào bàn hội nghị Genève chia đôi lãnh thổ. CSVN đã biến kháng chiến thành thỏa hiệp chia đôi đất nước, một lần nữa Việt Nam lại chịu cảnh qua phân hai miền Nam Bắc. Sau khi Mao Trạch Đông tuyên bố phải chiếm miền Nam để mở đường đánh chiếm các nước Đông Nam Á bằng mọi giá thì ngày 20 tháng 12 năm 1960, CSVN lại dựng lên cái gọi là “Mặt trận Giải phóng miền Nam” lợi dụng chiêu bài “Chống Mỹ cứu nước” để bành trướng chủ nghĩa CS, nhuộm đỏ cả đất nước Việt Nam. Đặc biệt, sau khi xâm chiếm miền Nam, ngày 25-4-1976 CSVN đã đổi tên đảng Lao Động là Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này chứng tỏ rằng kể từ ngày toàn quốc kháng chiến, nhân dân Việt Nam yêu nước tham gia mặt trận Việt Minh để đánh đuổi thực dân Pháp chứ nhân dân Việt Nam không hề ủng hộ hoặc tham gia đảng CSVN. Do đó, công lao kháng chiến là của toàn dân là chứ không phải của đảng CSVN. Nếu nói rằng do đảng lãnh đạo thì trong lịch sử Việt, biết bao nhiêu cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đâu cần có đảng CS lãnh đạo cũng chiến thắng quân thù. Ngược lại, sự thật đã chứng tỏ CSVN chỉ lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân VN để bành trướng chủ nghĩa CS mà thôi. Nếu Hồ Chí Minh không phải là cán bộ quốc tế cộng sản hoặc là bất kỳ một người Việt Nam nào khác thì Tổng Thống Roosevelt đã đặt Viêt Nam dưới sự ủy trị của Liên Hiệp Quốc rồi và đất nước Việt Nam đã độc lập tự do và giàu mạnh từ lâu. Sự thật lịch sử đã chứng minh Hồ Chí Minh nói riêng và Đảng CSVN nói chung không hề có công mà ngược lại là có tội với nhân dân Việt Nam, họ mới chính là những “kẻ phản động” là “Tội đồ” của dân tộc vì đã hành động ngược lại quyền lợi của dân tộc Việt Nam, đã dâng đất nhường biển từng bước bán đứng VN cho Tàu Cộng.
Đối với tất cả người Việt Nam yêu nước thì ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày “Quốc hận”. Ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày “mất nước” không phải do ngoại xâm mà là kẻ nội thù ngay trong lòng dân tộc và hàng triệu đồng bào Việt Nam yêu nước chuộng tự do dân chủ đã phải bỏ nước ra đi. Hơn tám mươi triệu đồng bào Việt Nam đang sống quằn quại trong một nhà tù khổng lồ mệnh danh là nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam do chính những người cộng sản Việt Nam thống trị. Những người cộng sản tuy là người Việt Nam nhưng họ đã bán linh hồn cho Các Mác-Lênin, họ không còn là người Việt Nam nữa mà là những cỗ máy vô hồn vô cảm kềm kẹp nhân dân mình, họ chính là những tên “Thái thú Thời đại Xác Việt hồn Tầu”. Giai cấp mới thống trị là lớp đảng viên được hưởng đặc quyền đặc lợi trở thành những cường hào đỏ, những tư sản đỏ, mặc sức vơ vét tài sản của nhân dân, cướp nhà cướp đất để làm giàu trên mồ hôi nước mắt và xương máu của nhân dân. Hàng triệu dân oan bị cướp nhà cướp đất, hàng triệu công nhân bị giai cấp thống trị cấu kết với tư bản nước ngoài bóc lột sức lao động của họ, hàng triệu công nhân đưa đi xuất khẩu lao động, hàng trăm ngàn phụ nữ phải bán rẻ thân xác để kết hôn với người nước ngoài để cứu bản thân và gia đình đang đói khổ. Thực chất cái gọi là xuất khẩu lao động, xuất ngoại kết hôn không khác gì cuộc bán buôn nô lệ người da đen sang tân lục địa mấy thế kỷ trước. Nếu có khác là thay vì những tên lái buôn nô lệ thì là nhà nước cộng sản đứng ra thu thuế lợi tức xuất khẩu và những con người khốn khổ đi khỏi đất nước vì nghèo nàn đói khổ lại phải sống khổ hơn người nô lệ da đen thời trước. Trong suốt trường kỳ lịch sử, chưa bao giờ người dân lại chịu cảnh đói khổ như bây giờ kể cả thời thực dân Pháp. Biết bao người đã phải tha hương chịu cảnh gia đình ly tán để đổi lấy một cuộc sống tốt đẹp hơn.
AI THẮNG AI TRONG CUỘC CHIẾN VIỆT NAM ?
Chúng ta cùng nhìn lại cuộc chiến Việt Nam để có một kết luận cuối cùng “Ai thắng Ai?” trong cuộc chiến này. Phải chăng Việt Nam Cộng hòa là người thua trận và Cộng sản Việt Nam là kẻ chiến thắng? Quân đội VNCH nói riêng và Miền Nam VN nói chung bị đồng minh bán đứng trở tay không kịp trong một ván bài quốc tế nên trở thành người chiến bại. Quân cán chính VNCH đã làm hết sức mình để bảo vệ phần đất tự do nhưng không thể làm gì hơn khi tương quan lực lượng đã thay đổi: Quân số CS gần gấp đôi quân lực VNCH sau khi Mỹ rút quân, vũ khí đạn dược thua kém quân CS nhất là khi HK chỉ viện trợ cho VNCH sau năm 1972 có 18 triệu dollars, trong khi Liên Sô và Trung Cộng viện trợ cho Hà Nội 1 tỷ rưỡi dollars nên quân đội chúng ta không còn đạn dược để tác chiến. Vả chăng, một khi thượng tầng chính trị đã xụp đổ do những tính toán sai lầm thì kéo theo sự tan rã của quân sự là một điều không tránh được.
Ðô đốc Grant Sharp, cựu tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, đã giải thích “Cuộc chiến thất bại không phải vì chống không lại địch quân, mà vì chính sách của Hoa Thịnh Ðốn đã đẻ ra quá nhiều chiến lược, nào leo dần tới đáp ứng, rồi đang mềm dẽo đột nhiên dội bom, sau đó tự ý ngưng và thương thuyết tại bàn hội nghị để đạt chiến thắng. Cuối cùng tự mình trói tay đầu hàng, rồi tháo chạy khỏi chiến trường, dù chẳng hề bị sa lầy hay bị lâm vào tuyệt lộ…”. Tiến sĩ Sorley cho rằng: “ Không có cách nói nào khác để giải thích nguyên do đưa đến kết cuộc bi thảm đó. Rốt cuộc chúng ta đã bỏ rơi miền Nam. Chúng ta đã hứa nếu giao tranh mới xảy ra, nếu miền Bắc vi phạm hiệp định Paris thì Hoa Kỳ sẽ trừng phạt những hành động vi phạm đó, ở đây tôi muốn nói tới việc dùng hỏa lực của không quân và hải quân. Ngoài ra theo tinh thần hiệp định Paris, Hoa Kỳ đã hứa sẽ thay thế các hệ thống, các thiết bị quân sự cho miền Nam trên căn bản một đổi một, kể cả xe tăng, súng ống, chiến đấu cơ vv… Ngoài ra, Hoa Kỳ hứa sẽ duy trì nguồn tài trợ dồi dào cho miền Nam. Tại một cuộc họp ở Tòa Bạch Ốc giữa Tổng Thống Thiệu và Tổng Thống Nixon, con số được nhắc tới là 1 tỉ đôla một năm, vô thời hạn. Thế nhưng tới thời điểm quyết định, tôi lấy làm tiếc là chúng ta đã không giữ cả 3 cam kết đó, trong khi sự giúp đỡ của các quan thầy Nga và Trung Quốc dành cho Cộng sản miền Bắc tiếp tục gia tăng.”
Để phân hoá hàng ngũ CS quốc tế, Chính quyền Nixon làm mọi cách để lôi kéo Trung Cộng tách ra khỏi Liên Sô mà tài liệu giải mật cho biết, chính Hoa Kỳ đã bí mật cung cấp nhiều phương tiện, vũ khí hiện đại cho Trung Cộng và rút khỏi Đông Dương mặc thị để Trung Cộng giữ một vai trò quan trọng tại vùng châu Á Thái Bình Dương. Để Trung Cộng bỏ Liên Sô về hợp tác với Hoa Kỳ, người Mỹ đã dùng quần đảo Hoàng Sa như một món qùa đầu tiên và kế tiếp là cam kết mật với Trung Cộng là sẽ không can thiệp vào Đông Dương trong bất cứ tình huống nào. Do đó, Trung Cộng đã bật đèn xanh cho Hà Nội đem quân xé bỏ hiệp định Paris tấn công miền Nam với sự chi viện ồ ạt những vũ khí tối tân nhất cho quân đội CSVN. Trong tính toán của Nixon, làm được như vậy vừa có lợi cho nước Mỹ đồng thời tạo điều kiện cho Nixon rút quân ra khỏi VN để thắng thêm 1 nhiệm kỳ nữa. Thế nhưng vụ Watergate xảy ra, Nixon phải từ chức vào tháng 8 năm 1974. Tình hình bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ đã tác động hết sức ngặt nghèo đến cuộc chiến ở Việt Nam. Đảng dân chủ với ứng cử viên Tổng Thống năm 1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, Thượng Nghị sĩ McGovern đã nói với Jim Web sau này là Thượng Nghị sĩ rằng: “Anh không hiểu là tôi KHÔNG MUỐN chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó sao?”. Theo Thượng nghị sĩ Jim Web thì “Cuộc bầu cử vào quốc hội với sự thắng lợi của 76 dân biểu và 8 Thượng nghị sĩ đảng dân chủ tranh cử với cương lĩnh phản chiến của Mac Govern.…Ông McGovern là phần tử của một nhóm quyền lực ngầm gọi là Liên lạc Ngoại giao (SFR) được tài trợ bởi hệ thống tài phiệt quốc tế như Rockfeller, Ford Foundation… có ảnh hưởng vô cùng lớn trong chính trường đã phát động phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger và được quảng bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là “những con ác quỷ trong chánh quyền Nam Việt Nam”. Phong trào chống chiến tranh VN được sự đóng góp tối đa của Cộng sản quốc tế về nhân lực và tài chánh nên tác động đồng loạt trên toàn thế giới. Tại quốc hội Hoa Kỳ, một “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chánh”trong đó có Harold Ickes và Bill Clinton nỗ lực vận động những tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống Cộng Sản, ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi các đơn vị bộ đội chánh quy Bắc Việt được khối Sô Viết và Trung Cộng yểm trợ. Tháng Ba năm 1975, phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo, 189-49 đã bác bỏ đề nghị của Tổng Thống Gerald Ford xin viện trợ 300 triệu dollars bao gồm đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ cho miền Nam Việt Nam theo như cam kết của TT Nixon cũng như Hiệp Định Paris 1973 đòi hỏi phải cung cấp “viện trợ để thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt Nam. Thế lực ngầm của tập đoàn tài phiệt đã buộc chính giới Hoa Kỳ bức tử VNCH theo đúng kế hoạch để nhảy vào thị trường Trung Quốc với hơn 1 tỷ dân tiêu thụ, lương bổng công nhân rẻ mạt sẽ hạ giá thành sản phẩm để thu lợi nhuận tối đa. Đồng thời dùng số tiền viện trợ cho Việt Nam để chi viện cho Do Thái, chiến tranh với Irac để sản xuất cung ứng cho quân đội Hoa Kỳ và bán vũ khí cho các nước Trung Đông. Hoa Kỳ đã lún sâu vào cuộc chiến hết Irac tới Apganixtan khiến ngân sách quốc phòng ngày càng gia tăng, kinh tế suy thoái kiệt quệ. Chính quyền lợi của tập đoàn tư bản tài phiệt đã làm lu mờ hình ảnh một nước Mỹ với lý tưởng cao đẹp, đưa nước Mỹ vào cuộc khủng hoảng chính trị và suy thoái kinh tế chưa từng có như hiện nay.
Đến ngày nay, phần lớn hồ sơ đã được giải mật cho chúng ta thấy rằng, Cộng sản Việt nam đã không thắng được quân lực VNCH và họ cũng không thể nào thắng được quân đội Mỹ. Thế nhưng, không chỉ chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử mà cả quân đội Hoa Kỳ cũng bị các lãnh tụ chính trị ở Washington không cho họ được phép chiến thắng mà hậu quả là hơn 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ đã phải hy sinh. Thực tế phũ phàng đến mức chính Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam, tướng Westmorlant đã cay đắng tuyên bố “Quân đội chúng ta phải tham dự một cuộc chiến với một tay bị trói sau lưng, một cuộc chiến không được thắng…”. Cuối cùng người Mỹ đã thua cộng sản ngay tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn của nước Mỹ khiến chính Tổng Thống L. B. Johnson đã phải thừa nhận: “Chúng ta đã đánh bại chính ta…”. Ba mươi sáu năm sau, Henry Kissinger, chứng nhân sống của lịch sử trong cuộc hội thảo tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 29-9-2010 đã nói lên sự thật: “Sự thảm bại tại VN vào ngày 30-4-1975 là do Hoa Kỳ gây nên, chứ không phải VNCH”.
Trên thực tế, cái gọi là “Đại thắng mùa Xuân!” chính là sự thất bại không gì cứu vãn nổi cuả CSVN kể từ ngày 30-4-1975. Từ trước tới nay, Cộng sản Việt Nam vẫn thường rêu rao họ chiến đấu để giải phóng dân tộc, giành lại độc lập dân tộc. Tất cả đã được phơi bầy khi Trung Cộng và Liên Sô công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Cộng sản Việt Nam là nhà nước Công-Nông, là thành trì của Xã hội chủ nghiã đầu tiên ở Đông Nam Á vào ngày 14-1-1959 và 31-1-1950. Chính vì vậy, ngày 7 tháng 2 năm 1950, Hoa Kỳ, Anh, Pháp đã công nhận chính phủ Quốc Gia do Đức Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo và nhân danh thế giới tự do trực tiếp can thiệp vào cuộc chiến ở Việt Nam để ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản. Nhân dân Việt Nam lâm vào thế trên đe dưới búa của một cuộc chiến tranh giữa 2 thế lực tư bản và cộng sản mà kết cục bi thảm là mấy triệu đồng bào Việt Nam đã hi sinh một cách vô nghĩa hết sức phi lý. Thực tế lịch sử đã chứng minh hùng hồn là thế kỷ XX là thế kỷ chấm dứt chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Bằng chứng cụ thể là Hoa Kỳ tự ý trả lại chủ quyền cho Phi Luật Tân (Philippine) năm 1946, Anh Quốc thừa nhận nền độc lập của Ấn Độ năm 1947, Hoà Lan giao trả độc lập cho Nam Dương (Indonesia) năm 1949 mà không phải hy sinh một ngươì dân nào. Thế thì tại sao, nhân dân Việt Nam phải hy sinh hàng triệu người để giành độc lập dân tộc? Đó chính là cốt lõi của vấn đề mà bất cứ ai cũng nhận thấy sau khi phân tích cụ thể rõ ràng. Chính vì Hồ Chí Minh là cán bộ đệ tam Quốc tế cùng với những Trần Phú, Lê Hồng Phong … đã rước voi Mác-Lê về giầy mả Tổ Hùng Vương, cõng rắn Trung Cộng về cắn gà nhà dân tộc! Cộng sản Việt Nam đã lợi dụng lòng yêu nước, dưới chiêu bài “Kháng chiến, giải phóng dân tộc” hy sinh hàng triệu người dân vô tội để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản xuống Đông Nam Á.
Lịch sử một lần nữa lại chứng tỏ CSVN là tập đoàn Việt gian án nước khi Phạm văn Đồng xác nhận bằng văn bản chủ quyền của Trung Cộng đối với quần đảo Hoàng Sa năm 1958 và lịch sử cũng chứng minh Việt gian CS là công cụ của quốc tế CS khi hy sinh công cuộc kháng chiến để ký kết hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 theo chỉ thị của Bắc Kinh. Thật vậy, giữa lúc cao trào kháng chiến dâng lên cao, thực dân Pháp bị lâm vào thế bí dẫn đến sự thất bại hoàn toàn về quân sự thì CSVN bị áp lực của quốc tế CS phải vào bàn hội nghị Genève chia đôi lãnh thổ. CSVN đã biến kháng chiến thành thỏa hiệp chia đôi đất nước, một lần nữa Việt Nam lại chịu cảnh qua phân hai miền Nam Bắc. Sau khi Mao Trạch Đông tuyên bố phải chiếm miền Nam để mở đường đánh chiếm các nước Đông Nam Á bằng mọi giá thì ngày 20 tháng 12 năm 1960, CSVN lại dựng lên cái gọi là “Mặt trận Giải phóng miền Nam” lợi dụng chiêu bài “Chống Mỹ cứu nước” để bành trướng chủ nghĩa CS, nhuộm đỏ cả đất nước Việt Nam. Đặc biệt, sau khi xâm chiếm miền Nam, bộ mặt thật của đảng CSVN đã tự phơi bày trước lịch sử. Ngày 25-4-1976 quốc hội bù nhìn gồm toàn đảng viên CSVN đã đặt tên là nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam và ngày 20-12-1976, CSVN đã đổi tên đảng Lao Động Việt Nam trở lại là đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này chứng tỏ rằng kể từ ngày toàn quốc kháng chiến, nhân dân Việt Nam yêu nước tham gia mặt trận Việt Minh để đánh đuổi thực dân Pháp chứ nhân dân Việt Nam không hề ủng hộ hoặc tham gia đảng CSVN. Do đó, nếu gọi là “công lao kháng chiến” thì cái “công lao” đó là của toàn dân là chứ không phải của đảng CSVN. Nếu nói rằng do đảng lãnh đạo thì trong lịch sử Việt, biết bao nhiêu cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đâu cần có đảng CS lãnh đạo cũng chiến thắng quân thù. Ngược lại, sự thật đã chứng tỏ CSVN chỉ lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân VN để bành trướng chủ nghĩa CS mà thôi. Nếu Hồ Chí Minh không phải là cán bộ quốc tế cộng sản hoặc là bất kỳ một người Việt Nam nào khác thì Tổng Thống Roosevelt đã đặt Viêt Nam dưới sự ủy trị của Liên Hiệp Quốc rồi và đất nước Việt Nam đã độc lập tự do và giàu mạnh từ lâu. Sự thật lịch sử đã chứng minh Hồ Chí Minh nói riêng và Đảng CSVN nói chung không hề có công mà ngược lại là có tội với nhân dân Việt Nam, họ mới chính là những “kẻ phản động” là “Tội đồ” của dân tộc vì đã hành động ngược lại quyền lợi của dân tộc Việt Nam, đã dâng đất nhường biển từng bước bán đứng VN cho Tàu Cộng.
Đối với tất cả người Việt Nam yêu nước thì ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày “Quốc hận”. Ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày “mất nước” không phải do ngoại xâm mà là kẻ nội thù ngay trong lòng dân tộc và hàng triệu đồng bào Việt Nam yêu nước chuộng tự do dân chủ đã phải bỏ nước ra đi. Hơn tám mươi triệu đồng bào Việt Nam đang sống quằn quại trong một nhà tù khổng lồ mệnh danh là nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam do chính những người cộng sản Việt Nam thống trị. Những người cộng sản tuy là người Việt Nam nhưng họ đã bán linh hồn cho Các Mác-Lênin, họ không còn là người Việt Nam nữa mà là những cỗ máy vô hồn vô cảm kềm kẹp nhân dân mình, họ chính là những tên “Thái thú Thời đại Xác Việt hồn Tầu”. Giai cấp mới thống trị là lớp đảng viên được hưởng đặc quyền đặc lợi trở thành những cường hào đỏ, những tư sản đỏ, mặc sức vơ vét tài sản của nhân dân, cướp nhà cướp đất để làm giàu trên mồ hôi nước mắt và xương máu của nhân dân. Hàng triệu dân oan bị cướp nhà cướp đất, hàng triệu công nhân bị giai cấp thống trị cấu kết với tư bản nước ngoài bóc lột sức lao động của họ, hàng triệu công nhân đưa đi xuất khẩu lao động, hàng trăm ngàn phụ nữ phải bán rẻ thân xác để kết hôn với người nước ngoài để cứu bản thân và gia đình đang đói khổ. Thực chất cái gọi là xuất khẩu lao động, xuất ngoại kết hôn không khác gì cuộc bán buôn nô lệ người da đen sang tân lục địa mấy thế kỷ trước. Nếu có khác là thay vì những tên lái buôn nô lệ thì là nhà nước cộng sản đứng ra thu thuế lợi tức xuất khẩu và những con người khốn khổ đi khỏi đất nước vì nghèo nàn đói khổ lại phải sống khổ hơn người nô lệ da đen thời trước. Trong suốt trường kỳ lịch sử, chưa bao giờ người dân lại chịu cảnh đói khổ như bây giờ kể cả thời thực dân Pháp. Biết bao người đã phải tha hương chịu cảnh gia đình ly tán, biết bao thiếu nữ Việt Nam ngây thơ trong trắng phải bán rẻ cả thân xác để nuôi sống gia đình.
Cộng sản đã để lộ bộ mặt thật giả nhân gỉa nghĩa của họ là một tập đoàn bán nước, một chế độ độc tài toàn trị tước đoạt mọi quyền tự do căn bản nhất của con người … Một chế độ rêu rao là Nhân dân làm chủ thực ra là làm chủ nhân dân, tước đoạt tài sản đất đai tư hữu của người dân, chế độ thuế khóa nặng nề, tham nhũng bóc lột nhân dân còn thậm tệ hơn chế độ phong kiến thực dân trước đây. Hơn tám mươi triệu đồng bào sống trong trại tù khổng lồ gọi là nhà nước CHXHCNVN và hàng triệu đồng bào phải bỏ nước ra đi tìm tự do. Cái gọi là thống nhất của Cộng sản Việt Nam chỉ là thống nhất tài sản nhân dân trong tay nhà nước quản lý mà thôi chứ không thống nhất được lòng người. Đứng trên quan điểm Dân tộc, ngày 30-4-1975 chỉ là ngày chấm dứt một thời kỳ chiến tranh ý thức hệ để mở ra một thời kỳ lịch sử mới, một cuộc chiến mới bắt đầu: Cuộc chiến của “TOÀN DÂN CHỐNG CỘNG” cả trong Nam lẫn ngoài Bắc đều đứng lên chống lại chế độ bạo tàn phi nhân Cộng sản kể cả những đảng viên Cộng sản cao cấp từng bị lừa dối đã giác ngộ quyền lợi của dân tộc…Chính vì vậy, chưa bao giờ công luận quốc tế lại ủng hộ cuộc đấu tranh giành lại tự do, dân chủ của toàn dân Việt Nam như ngày nay.
Chưa bao giờ lịch sử Việt lại trải qua một giai đoạn bi thảm như hiện nay. Bộ mặt thật hại dân bán nước của tập đoàn Việt gian Cộng sản phơi bày trắng trợn. Tập đoàn Việt gian đã lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản, đưa dân tộc vào vòng nô dịch đói khổ chưa từng thấy trong lịch sử. Tội ác do tập đoàn Việt gian CS gây ra “Trời không dung, đất chẳng tha. Thần người đều căm hận, Trời đất chẳng dung tha”… Ngày nay, nhân dân Việt Nam không còn gì để mất nữa, không còn sợ hãi gì nữa khi tất cả đồng loạt xuống đường làm lịch sử. Tất cả đã hội đủ những điều kiện cần thiết để bùng nổ một cuộc “cách mạng Trống Đồng” sống lại “Hào Khí Diên Hồng” và “Tây Sơn Thời đại” trong nay mai. Một cuộc cách mạng của quần chúng tự đứng lên đòi hỏi quyền lợi chính đáng của mình, giành lại quyền dân chủ tự do, quyền làm chủ đất nước. Lòng dân lòng quân muôn người như một, căm hận phẫn uất tột cùng. Bài học lịch sử lại tái diễn trong thời gian trước mắt, bất cứ lúc nào.
Một khi tất cả đồng bào oan khiên, tất cả công nhân nghèo đói, tất cả thanh niên sinh viên yêu nước, tất cả tôn giáo từ Phật giáo, Thiên chúa giáo, Cao Đài, Hòa Hảo, Tin lành cùng nhất loạt nắm chặt tay nhau ngồi cầu nguyện cho tự do tôn giáo, đòi lại tài sản giáo hội. Một cuộc đấu tranh giành lại quyền sống tự do dân chủ, quyền làm chủ đất nước trong ôn hòa bất bạo động, bất hợp tác đã và đang diễn ra trên cả nước. Thanh niên sinh viên học sinh bãi khóa, công nhân đình công, tiểu thương bãi thị cho đến khi cộng sản phải thoả mãn yêu cầu chính đáng của nhân dân thì ngày đó là ngày thắng lợi của Dân tộc Việt Nam. Bằng không, lòng dân muôn người như một đứng lên giành lại quyền sống làm người đến, tất cả u uất căm hờn tự bao năm sẽ gom lại như ngọn sóng thần, bất cứ lúc nào sẽ trào dâng như thác đổ thành bão táp cách mạng sẽ cuốn trôi tất cả tập đoàn Việt gian bất nhân hại dân bán nước, những tàn dư rác rưởi tệ hại xấu xa của chế độ cộng sản bạo tàn phi nhân xuống hố thẳm của lịch sử.
“Thỉnh Nguyện Thư” của 150 ngàn công dân Hoa Kỳ gốc Việt, “Thỉnh Nguyện Thư” của cộng đồng Việt Nam tại Úc Châu, Canada … thể hiện ý chí quyết tâm Diên Hồng Thời Đại đã được chính giới Hoa Kỳ và công luận toàn thế giới ủng hộ nồng nhiệt. Tất cả chỉ còn tùy thuộc vào quyết tâm của toàn dân trong nước thể hiện trong các cuộc đồng loạt xuống đường chống đế quốc mới Trung Cộng, xuống đường đòi dân chủ, đòi lại đất đai ruộng vườn trên cả nước.Toàn thê đồng bào Việt Nam Hải ngoại sẽ làm hết sức mình từ tinh thần đến vật chất yểm trợ cho đồng bào trong nước, chúng ta cùng chuyển đổi lịch sử để cứu dân cứu nước. Một khi toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước cùng nhất loạt đứng lên làm cuộc cách mạng Trống Đồng chuyển đổi lịch sử thì mùa Xuân Dân tộc sẽ trở về trên quê hương yêu dấu của chúng ta trong một ngày rất gần, rất gần đây để nhân dân được sống trong dân chủ tự do ấm no hạnh phúc thực sự như đại danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi đã viết trong “Bình Ngô Đại cáo”:
“ Đại nghĩa thắng hung tàn ..
Chí nhân thay cường bạo ..!”
Giờ cáo chung của chế độ Việt gian Cộng sản bất nhân hại dân bán nước đã điểm… Nhân dân trong nước sẽ “Tổng biểu tình, Tổng nổi dậy” để đưa chủ nghĩa CS và tập đoàn Việt gian CS tới nơi an nghỉ cuối cùng: “Thiên đường Cộng sản” của họ trong nay mai. Nhân dân Việt Nam sẽ xóa bỏ cái gọi là thành phố HCM để lấy lại tên Sài Gòn. Chúng ta sẽ trở về Sài Gòn dấu yêu trong vinh quang của mùa Xuân Dân Tộc.
Tổ Quốc Việt Nam Trường Tồn …
Dân Tộc Việt Nam bất diệt …
Việt Nam Muôn Năm …
Xin trân trọng kính chào quý vị
PHẠM TRẦN ANH
CHÚ THÍCH
1. Karl Marx cho rằng sự kiện lịch sử là hệ quả tất yếu của những quan hệ nhân quả và các sự kiện lịch sử tác động nhau một cách biện chứng. Sử quan duy vật biện chứng trên cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội quyết định thượng tầng kiến trúc chính trị. Duy vật sử quan phủ nhận tính thường hằng bất biến của định mệnh lịch sử, thế nhưng vẫn không thể lý giải được những quy luật thăng trầm đầy bí ẩn của lịch sử. Mặt khác lại rơi vào tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hoá, vĩ đại hoá cá nhân và tô hồng chế độ nên lịch sử ngày càng sai lạc, xa rời sự thật. Duy vật sử quan Karl Marx đúng cho các hiện tượng phổ quát nhưng sự thật hết sức éo le, phũ phàng khi nó lại rơi đúng vào những gì mà Karl Marx hằng ấp ủ hoài bão: sự xụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa! Karl Marx nói: “Lịch sử tác động lẫn nhau một cách biện chứng, nó không làm một cái gì nửa vời cả một khi muốn đưa hình thái xã hội già cỗi đến huyệt mộ thì lịch sử sẽ là tấn bi hài kịch của chính nó. Tại sao lịch sử lại diễn ra theo tiến trình ấy? Đó chính là để cho nhân loại rời bỏ được cái quá khứ ấy một cách vui vẻ vậy!”. Điều đáng tiếc là Karl Marx đã không còn sống để chứng kiến tấn bi hài kịch Cộng sản hạ màn không kèn không trống ..!
Thật vậy, cuối năm 1988, cuộc khủng hoảng bắt đầu nổ ra ở Ba Lan, sau đó lan sang Hungari, Tiệp Khắc, Cộng Hòa Dân chủ Đức, Rumani, Bungari, Nam Tư, Anbani như một dòng thác cách mạng. Đảng Cộng sản và nhà nước các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lần lượt buộc phải chấp nhận xóa bỏ độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản, thực hiện chế độ đa nguyên và tiến hành tổng tuyển cử tự do. Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa cộng sản ở các nước Đông Âu đã dẫn tới những biến đổi lịch sử: Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc quay trở lại theo con đường Tư bản chủ nghĩa. Cộng Hòa Dân chủ Đức sát nhập vào Cộng Hòa Liên bang Đức. Trong khi đó, ngày 21-8 đảng Cộng sản Liên Sô bị đình chỉ hoạt động trong toàn liên bang, chính phủ Sô viết bị giải thể. Mười một nước cộng hòa tuyên bố độc lập, tách ra khỏi Liên bang Sô Viết. Một làn sóng chống đảng Cộng sản và chống Xã hội chủ nghĩa dâng khắp mọi nơi. Ngày 21-12-1991 chính thức thành lập các quốc gia độc lập SNG buộc Tổng thống Liên Sô M Goócbachôp phải từ chức và cùng ngày đó, ngày 25-12-1991 lá cờ đỏ búa liềm trên nóc điện Cẩm Linh (Kremlin) sau 74 năm bị hạ xuống. Đây là một thất bại nặng nề của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới, dẫn đến hệ thống thế giới của chủ nghĩa Cộng sản trên thực tế không còn tồn tại nữa. Thật vậy, nếu K Marx còn sống dưới thời Lenin, Stalin thì hẳn là K Marx đã chết trong các trại cải tạo ngút ngàn ở Sibérie rồi và ông ta cũng không thấy được nhân loại vui mừng thế nào khi Liên Xô và các nước Đông Âu xụp đổ vào cuối thế kỷ XX..!
2. Nguyễn Tất Thành sau này đổi tên là Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy rồi Hồ Chí Minh là người Việt Nam theo cộng sản đầu tiên khi sang Pháp năm 1911, rồi lưu vong sang các nước Phi Châu, Âu Châu, Nam Mỹ, Hoa Kỳ và Anh Quốc. Năm 1917, trở về Pháp hoạt động với tư cách đảng viên đảng xã hội Pháp và theo Luật sư Phan văn Trường, chí sĩ Phan Chu Trinh và những trí thức VN yêu nước chân chính chống thực dân Pháp ngay trên đất Pháp. Những trí thức này sống ngay trênđất Pháp nên không thể xuất hiện công khai nên lấy một tên chung là Nguyễn Ái Quốc để viết báo chống thực dân Pháp. Nguyễn Tất Thành được hướng dẫn học tập rồi được giao nhiệm vụ tuyên truyền vận động công khai chống Pháp với tên Nguyễn Ái Quốc. Năm 1919, gia nhập đệ tam quốc tế CS tại đại hội Toulouse Pháp. Năm 1920, Nguyễn Tất Thành lợi dụng cái tên Nguyễn Ái Quốc trong sinh hoạt của đảng Xã Hội để trở thành một trong những sáng lập viên của đảng Cộng sản Pháp. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc nhận lệnh sang Nga học tập về tổ chức cách mạng. Trong lá thư gửi Quốc tế CS chứng tỏ họ Hồ là cán bộ trong ban phương Đ ông của Comintern tức Quốc tế CS, ăn lương của Quốc tế CS để bành trướng chù nghĩa CS ở Đông Dương. Cuoái naêm 1924, Quoác ñöôïc cöû sang Trung Quoác laøm vieäc cho haõng thoâng taán Soâ Vieát Rosta döôùi söï ñieàu ñoäng cuûa Mikhail Borodin, tröôûng ñoaøn coá vaán Comintern cho Quoác Daân ñaûng Trung Hoa cuûa Toân Daät Tieân vôùi teân Lyù Thuî vaø kyù maät danh laø Nilovskii trong nhöõng baùo caùo veà quoác teá CS. Naêm 1925, Nguyeãn Aùi Quoác keát hôïp vôùi nhoùm Taâm Taâm xaõ cuûa Leâ Quang Ñaït, Leâ Hoàng Phong, Leâ Hoàng Sôn vaø Hoà Tuøng Maäu thaønh laäp Vieät Nam Thanh nieân Caùch maïng ñoàng chí hoäi taïi Quaûng Chaâu. Toå chöùc naøy laáy chuû nghóa Marx, chuû thuyeát caùch maïng theá giôùi cuûa Lenin vaø chuû nghóa Tam Daân cuûa Toân Daät Tieân ñeå tuyeân truyeàn huaán luyeän caùn boä. Nhieàu thanh nieân Vieät Nam yeâu nöôùc chaïy sang Trung Quoác gia nhaäp vaøo toå chöùc thanh nieân naøy maø khoâng ngaàn ngaïi nghi ngôø gì caû.
Trong thời gian hoạt động tại Trung Quốc, Hồ Chí Minh bị Quốc Dân Đảng Trung Hoa bắt giam, Hồ Chí Minh đã tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa CS để gia nhập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội là một liên minh các đảng phái chống thực dân Pháp và Phát Xít Nhật do Quốc Dân Đảng Trung Hoa hỗ trợ. Họ Hồ viết bản dự thảo kế hoạch cải tổ cơ cấu kháng chiến và thành lập mạng lưới tình báo cho đồng minh ở VN nên tháng 9 năm 1943, Trương Phát Khuê mới thả Hồ Chí Minh và giao cho nhiệm vụ thực hiện kế hoạch với tư cách một thành viên dự khuyết trong Uỷ ban Điều hành Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội. Khi đưa ra đề nghị với Pháp, Hồ Chí Minh đã tính toán kỹ lưỡng biết rằng khi nhờ OSS chuyển đề nghị cho Pháp nhưng Pháp sẽ không trả lời nhưng đó là cái cớ cho Hoa Kỳ qua toán tinh báo chiến lược OSS tiến hành tiếp tế vũ khí đạn dược trang bị cho trung đội võ trang tuyên truyền đầu tiên mà hình chụp có cả họ Hồ và Võ nguyên Giáp mặc áo kaki vàng đeo súng lục Mỹ. Toán OSS huấn luyện 4 tuần cho khoảng 200 cán bộ chỉ huy bộ đội Việt Minh về cách sử dụng những vũ khí mới nhất và chiến thuật du kích chiến quân sự cho Việt Minh. Lợi dụng cơ hội này Hồ đã tuyên truyền với nhân dân là người Mỹ ủng hộ Việt Minh với lực lượng “Bộ đội Việt Mỹ” gồm huấn luyện viên người Mỹ vào du kích quân.
Ngày 29 tháng 3 năm 1945, Hồ Chí Minh dưới tên gọi là Lucius, cộng tác viên của tình báo chiến lược OSS mới được gặp tướng Claire Chennault, tư lệnh phi đoàn “Cọp Bay” ở Côn Minh sau khi đã cứu được viên phi công Mỹ Rudolph Shaw năm 1944. Họ Hồ đã xin được chụp chung một tấm hình và được viên tướng Cọp Bay đề tặng. Chính tấm hình này cũng như bìa tờ báo Việt Minh vẽ hai bàn tay Mỹ-Việt nắm tay nhau đã khiến mọi người tham gia Việt Minh lúc đó tin tưởng rằng Hồ Chí Minh được Hoa Kỳ yểm trợ. Những lời tuyên bố của Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt chỉ trích chế độ thực dân Pháp, sự thành lập bộ đội Việt Mỹ từ chiến khu Tân Trào với sự hiện diện của các sĩ quan tình báo chiến lược Hoa Kỳ OSS và tấm hình tướng Cọp bay Chennault ký tặng Hồ Chí Minh ở Côn Minh đã được Việt Minh sử dụng và thuyết phục được đại đa số nhân dân ủng hộ họ.(3)
Vấn đề đặt ra cho chúng ta là Hồ chí Minh có thực sự là người yêu nước hay không? Có một thực tế là trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp thống trị thì bất cứ người Việt Nam nào lại không yêu nước, lại không căm thù thực dân Pháp đến tận xương tủy. Sau nhiều năm sống ở ngoại quốc, Hồ Chí Minh lại nộp đơn vào xin học trường thuộc điạ và bị từ chối. Nếu được thu nhận thì con đường hoạn lộ hẳn sẽ thênh thang và không biết Hồ Chí Minh sẽ đi về đâu, một viên quan cai trị chắc chắn sẽ thẳng tay trấn áp các phong trào VN yêu nước? Đảng CS vẫn tuyên truyền là “Bác” vui mừng khi thấy con đường giải phóng thuộc địa … và chỉ qua quốc tế CS để giải phóng dân tộc. Tài liệu mới nhất “Văn kiện Đảng” toàn tập vô hình trung lại tiết lộ “Bác” chính là một cán bộ đệ tam quốc tế CS sang Liên Xô chờ lệnh về Trung Quốc và hàng tháng vẫn nhận tiền lương của Quốc tế CS để thực hiện công tác của quốc tế CS. Năm 1920, Nguyễn Tất Thành lợi dụng cái tên “Nguyễn Ái Quốc” trong sinh hoạt của đảng Xã Hội để trở thành một trong những sáng lập viên của đảng Cộng sản Pháp. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc nhận lệnh sang Nga học tập về tổ chức cách mạng. Trong lá thư gửi Quốc tế CS chứng tỏ họ Hồ là cán bộ của Quốc tế CS, ăn lương của Quốc tế CS để bành trướng chù nghĩa CS ở Đông Dương … chính họ Hồ thú nhận trong lá THƯ GỪI BAN CHẤP HÀNH QUỐC TẾ CỘNG SẢN như sau:“Từ lúc tôi tới Mátxcơva đã có quyết định rằng sau 3 tháng lưu lại ở đây, tôi sẽ đi Trung Quốc . Bây giờ đã là tháng thứ chín tôi lưu lại và tháng thứ sáu tôi chờ đợi, vậy mà việc lên đường của tôi chưa được quyết định. Vậy chuyến đi sẽ là một chuyến đi để khảo sát và nghiên cứu:
1.Thiết lập những quan hệ giữa Đông Dương và Quốc tế Cộng sản.- Thông báo cho Quốc tế Cộng sản về tình hình chính trị, kinh tế và xã hội của thuộc địa này.
2.Tiếp xúc với các tổ chức đang tồn tại ở đó, và
3.Tổ chức một cơ sở thông tin và tuyên truyền. Tôi hành động thế nào để hoàn thành nhiệm vụ này? Số tiền cần thiết cho sự ăn ở của tôi sẽ là bao nhiêu? – Hẳn là tôi sẽ phải đổi chỗ luôn, duy trì những mối liên hệ với các giới khác nhau, trả tiền thư tín, mua những ấn phẩm nói về Đông Dương, tiền ăn và tiền trọ, v.v., v.v.. Tôi tính rằng, sau khi tham khảo ý kiến các đồng chí người Trung Quốc phải có một ngân sách xấp xỉ 100 đôla Mỹ mỗi tháng, không kể hành trình Nga – Trung Quốc (vì tôi không biết giá vé)”. Ngày 11-4-1924. (Hồ Chí Minh Toàn Tập – tập 2)
2. Đặc biệt ngoài sự yểm trợ trực tiếp của Quốc tế CS, Hồ Chí Minh lại khôn khéo vận động sự trợ giúp của Hoa Kỳ qua chiêu bài đề nghị 5 điểm cải cách “Bầu cử một nghị viện” do “một toàn quyền Pháp làm chủ tịch và trả laị độc lập cho VN sớm nhất là 5 năm nhưng không quá 10 năm”. Điều này phù hợp với quan điểm của Tổng thống Roosevelt là muốn Pháp trao trả lại độc lập cho các thuộc địa cũ của Pháp. Cả Thiếu tá Archimedes “Al” Patti của toán OSS tại Đông Dương và sau này Trung tá Allison Thomas đều tin tưởng những gì Hồ Chí Minh đã cam kết với tướng Trương Phát Khuê Quốc Dân Đảng Trung Hoa rằng, mục tiêu trước mắt cuả ông ta là khôi phục độc lập tự do cho Việt Nam và quả quyết rằng:“… một xã hội cộng sản ở Việt Nam phải ít nhất 50 năm sau mới thành lập được”.
Sau khi Nhật đầu hàng, quân Anh được giao cho nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật ở miền Nam, quân đội Trung Hoa giải giới quân Nhật ở miền Bắc. Chính phủ Anh cùng chủ trương “thực dân” nên đã cho quân đội Pháp theo chân vào miền Nam. Ngày 28 tháng 2 năm 1946, sau khi Pháp cam kết giao trả các đặc quyền nhượng địa đã chiếm đoạt từ thế kỷ trước nên Trung Hoa đã ký với Pháp thỏa ước Trùng Khánh, trong đó đồng ý cho quân đội viễn chinh Pháp ra Bắc thay thế quân đội Trung Hoa ở miền Bắc.. Tư lệnh quân viễn chinh Pháp tướng Leclerc ra lệnh chiến hạm chuyển quân ra Bắc, Hồ Chí Minh đã vội vã chấp nhận các điều khoản trong Hiệp ước Sơ bộ trong đó qui định Việt Nam là một nước tự do trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên Hiệp Pháp. Việt Nam có chính phủ riêng nhưng chỉ được chia 1 phần quyền cai trị về đối nội … nhưng họ Hồ vẫn chấp nhận vì nhiều lý do. Thứ nhất là loại vai trò của Bảo Đại ra khỏi chính trường lúc đó đang đề cập tới một giải pháp Bảo Đại nên họ Hồ sẵn sàng ký kết trực tiếp với Pháp sau đó đưa Bảo Đại sang Hồng Kông rồi không cho trở về nữa. Thứ hai là chấp nhận nhượng bộ Pháp thì quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa phải rút về nước để họ Hồ rảnh tay tiêu diệt các đảng phái quốc gia. Điều này chính Võ nguyên Giáp thú nhận trong hồi ký là “Ngày 9.3.1946 Trung ương họp, chủ tịch Hồ Chí Minh phấn khởi báo tin ta đã ký được hiệp ước 6 tháng 3 năm 1946. Thắng lợi lớn của đảng đã đuổi khỏi đất nước 18 vạn tên chống cộng khét tiếng. Cách mạng đã gạt đi một kẻ thù hết sức nguy hiểm, trút đi một gánh nặng ...”.
Sau khi sắp xếp xong mọi việc, ngày 30 tháng 5 năm 1946 Hồ Chí Minh lên đường sang Pháp để chỉ đạo phái đoàn do Phạm văn Đồng cầm đầu tại hội nghị. Trước khi đi, Hồ Chí Minh ủy quyền cho Huỳnh Thúc Kháng và thành lập mặt trận Liên hiệp Quốc dân Việt Nam gọi tắt là Liên Việt. Mục đích của Mặt trận Liên Việt là để lôi kéo sự ủng hộ của quần chúng trong chiến dịch tổng tấn công tiêu diệt các lực lượng đảng phái quốc gia. Chiến dịch cầm đầu bởi Võ Nguyên Giáp khi đó là Bộ trưởng bộ Nội vụ. Việt Minh trưng ra các bằng chứng ngụy tạo là cán bộ Việt Minh bị các đảng phái Quốc Gia thủ tiêu rồi Võ nguyên Giáp hạ lệnh đồng loạt tấn công bất ngờ tất cả các trụ sở của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng minh Hội. Đảng kỳ, bảng hiệu bị tháo gỡ triệt hạ và cán bộ Việt Nam Quốc Dân đảng bị Việt Minh bắt giữ rồi thủ tiêu. Các chiến khu của các đảng phái quốc gia cũng lần lượt bị tiêu diệt. Các lãnh tụ Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam phải bỏ chạy sang Trung Hoa, nhiều lãnh tụ các đảng phái khác bị Việt Minh bắt đi thủ tiêu như Trương Tử Anh (Đại Việt Quốc Dân Đảng), Lý Đông A (Duy Dân), Khái Hưng Việt Nam Quốc Dân Đảng … Trong Nam, Hồ văn Ngà Mặt trận Quốc gia Thống nhất, Huỳnh văn Phương, Dương văn Giáo, vợ chồng bác sĩ Hồ Vĩnh Ký, ông Bùi Quang Chiêu lãnh tụ đảng Lập Hiến cũng bị thủ tiêu. Trước đó, ngay sau cách mạng tháng 8 những thủ lãnh phe Đệ tứ Quốc tế Cộng sàn như Phan văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Lương Đức Thiệp, Phan văn Chánh, Trần văn Thạch … đều bi thủ tiêu.(4) Ngay cả những nhà lãnh đạo tôn giáo yêu nước không cộng sản cũng bị Việt Minh thủ tiêu như Đức Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ cũng bị thủ tiêu, năm 1947, Phối sư Cao Đài Thượng Vinh Thanh Trần Quang Vinh cũng bị bắt nhưng trốn thoát, sau 1975 Phối sư Trần Quang Vinh bị Cộng sản bắt và xử tử tháng 9 năm 1975. Theo tài liêụ của của hai tôn giáo Cao Đài Hòa Hảo thì chức sắc, tín đồ và binh sĩ bị giết lên tới 20 ngàn người.
(2) Chính cộng sản cũng không phủ nhận được được ý nghĩa và vai trò cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Trong một tài liệu kỷ niệm cuộc cách mạng Yên Bái ngày 9 tháng 2 năm 1931, đảng CS đã phải thừa nhận là Làn sóng cách mạng bắt đầu từ cuộc bạo động ở Yên Bái do Quốc Dân Đảng tổ chức và chỉ huy như sau “Hỡi anh chị em công nông, chúng ta nên lấy ngày 9 tháng 2 làm một ngày kỷ niệm cách mạng Đông Dương. Thế nhưng ta chớ hiểu lầm ta kỷ niệm Yên Bái là ta tán đồng quốc gia chủ nghĩa và hoàn toàn kính phục những lãnh tụ của VNQDĐ đâu. Ta nên nhân dịp ngày kỷ niệm này để giải tỏ trước mặt quảng đại quần chúng công nông trong toàn xứ biết rằng cộng sản chủ nghĩa với quốc gia chủ nghĩa là một trơì một vực và không bao giờ hai chủ nghĩa ấy có thể dung hợp được với nhau …”. Theo Hoàng văn Đào trong “ VNQDĐ: Lịch sử tranh đấu cận đại 1927-1954” thì chính đảng CS đã tung ra hàng nghìn tờ truyền đơn kêu gọi dân chúng nổi dậy để cho chánh sở mật thám Pháp L. Marty biết rõ ngày giờ khởi nghĩa nên VNQDĐ đã thất bại. Sau đó, CSVN cũng cướp ngay 3 mục tiêu tranh đấu của chủ nghĩa Tam Dân là Dân tộc Độc lập, Dân quyền Tự do, Dân sinh Hạnh phúc cuûa Vieät Quoác Daân Ñaûng laøm muïc tieâu tranh đấu!
(3) Luật sư Trịnh Đình Thảo, Bộ trưởng bộ Tư pháp trong chính phủ Trần Trọng Kim nhận được tin là Đại úy Landsdale, phụ tá Thiếu tá Archimèdes Patti, trưởng đoàn OSS ở vùng Đông Nam Á … thay vì tiếp tế cho những nhóm quân Pháp còn đang chiến đấu chống Nhật trong vùng rừng núi biên giới thì lại thả dù vũ khí và đạn dược xuống cho Việt Minh để trang bị cho 1 tiểu đoàn đầu tiên và phái Aoron Bank tới huấn luyện cho bộ đội Việt Minh …. Sau này theo tiết lộ của trung tướng Chu văn Tấn thì trong đoàn quân từ Pắc Pó trở về Hà Nội có các sĩ quan OSS người Mỹ và chính Thiếu tá A Patty là người giúp họ Hồ viết bản Tuyên ngôn và chính Trung tá Allison viết tối hậu thư bằng tiếng Anh buộc quân Nhật ở Lạng Sơn đầu hàng. Một sự thực lịch sử nữa vừa mới được công bố là chính Hoa Kỳ chứ không ai khác đã góp phần quan trọng trong cái gọi là “cách mạng mùa Thu 19-8” và “Tuyên ngôn độc lập” 2 tháng 9 năm 1945. Tổng thống Roosevelt lúc đó muốn Pháp phải trả lại độc lập cho Việt Miên Lào và đặt dưới chế độ Ủy trị của Liên Hiệp quốc nên ông ta đã chỉ thị cho các cấp quân đội Mỹ không cho thực dân Pháp mượn phương tiện trở lại Đông Dương, chính vì vậy tướng Cọp bay chỉ cho trưởng phái bộ quân sự Pháp là Sainteny lên phi cơ về Hà Nội sau ngày 2 tháng 9 năm 1945 thì mọi việc xem như đã xong rồi …! Hồ Chí Minh công bố chính phủ Lâm thời bao gồm các đảng phái nhưng Việt Minh tức CS nắm phần chủ động, họ Hồ còn khôn ngoan mời vua Bảo Đại làm cố vấn rôì sau đó tìm cách đưa Bảo Đại sang Hồng Kông rôì không cho về lại Việt Nam nữa .… Sau khi “chớp thời cơ, cướp chính quyền” họ Hồ bắt đầu nghĩ tới việc loại bỏ các đảng phái quốc gia sau khi bị áp lực của Quốc Dân đảng Trung Hoa phải thành lập chính phủ Liên hiệp Lâm thời và phải chia 20 ghế cho VNCMĐMH và 50 ghế cho VNQDĐ còn lại 280 ghế là của CS. Để che mắt quần chúng nhân dân, ngày 11 tháng 11, Đảng CS Đông Dương tuyên bố tự giải tán và thay thế bằng Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Karl Marx ở Đông Dương. Đây chỉ là một chiến thuật lùi vào bóng tối nhưng trên thực tế họ vẫn tiếp tục hoạt động dưới danh nghĩa mặt trận Việt Minh cho đến năm 1951, họ lại chính thức hoạt động dưới cái tên mới nhẹ nhàng hơn là Đảng Lao Động Việt Nam. Ý đồ qủi quyệt này của Hồ Chí Minh đã được Võ Nguyên Giáp viết lại trong hồi ký như sau: “Đâù tháng 9, bác ra mắt nhân dân với danh hiệu chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là bí danh mà Bác đã dùng mấy năm trước để che mắt bọn Quốc dân đảng Trung Hoa. Những người cách mạng đã về sống giữa đồng bào nhưng mọi hoạt động của đảng vẫn tiến hành theo phương thức bí mật. Cán bộ đảng chưa ra làm việc công khai. Hầu hết đảng viên đều công tác dưới danh nghĩa cán bộ Việt Minh …. Rất nguy hiểm là bọn VNQDĐ và VN Cách mệnh Đồng minh hội, chúng cố tìm cách kích động quần chúng bằng khẩu hiệu “Không điều đình với ai hết. Thắng hay là chết”. Chúng muốn phá cuộc đàm phán giữa ta và Pháp”.
(4) Theo jean Lacouture trong tác phẩm Hồ Chi Minh do Penguin Books 1969 thì khi Hồ chí Minh sang dự hội nghị Fontainbleau, một đảng viên đảng xã hội Pháp hỏi họ Hồ về việc Tạ Thu Thâu bị thủ tiêu thì Hồ Chí Minh tỏ ý đau buồn về cái chết của “Nhà đại ái quốc này” nhưng không giấu được ý đố, họ Hồ nói tiếp “Tất cả những người không theo đường lối mà tôi vạch ra đều sẽ bị đập tan . Nhà báo BernardFall: “Chiên tranh bùng nổ đã đơn giản hóa những khó khăn về chính trị của ông Hồ. Họ Hồ không cần đối phó vơí phe đối lập bằng bàn tay bọc nhung nữa và cứ việc gọi họ là Việt gian, cứ trói lại từng chùm rồi thả xuống sông cho trôi ra biển …”.
(5) Ngày 5 tháng 7, tờ báo L’Union Francaise ở Sài Gòn đăng lời tuyên bố của Bảo Đại: “Nếu tất cả mọi người Việt Nam tin tưởng nơi tôi và nếu sự hiện diện của tôi có thể giúp cho việc thiết lập lại các quan hệ tốt đẹp giữa nhân dân Việt và Pháp, tôi sẽ vui lòng trở về nước Tôi không ủng hộ nhưng cũng không chống lại Việt Minh. Tôi không thuộc đảng nào cả. Hòa bình sẽ trở lại mau chóng nếu người Pháp nhận thức được rằng tinh thần dân tộc chúng tôi ngày nay không còn giống như cách đây 10 năm. Tôi không cần nói thêm về điều này vì chính phủ Pháp bây giờ đã biết những đòi hỏi của tôi. Đề nghị của tôi là tôi chỉ đóng vai trò trung gian giữa nước Pháp và tất cả các đảng phái ở Việt Nam …”. Thật ra trước khi Bảo Đại ký hiệp định Élysées với TT Pháp Vincent Auriol thành lập quốc gia Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp, Bảo Đại làm Quốc trưởng … thì ngày 18-1-1949, Trung Quốc đã thừa nhận chính phủ VNDCCH và ngày 31-1-1949, Hồ Chí Minh gửi công hàm thừa nhận chính phủ Trung Quốc. Ngày 1 tháng 10, sau khi chiếm Bắc Kinh, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Cuộc diện chính trị Việt Nam thay đổi chuyển sang một khúc quanh lịch sử khi Trung Cộng sau khi chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, ngày 14 tháng 1 năm 1950 Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc gửi công hàm thừa nhận nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam Á và chính thức viện trợ những vũ khí tối tân cho Việt Minh. Ngày 31 tháng 1 năm 1950, Liên Sô gửi công hàm chính thức thừa nhận nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Thế giới tự do lo sợ trước nguy cơ đe dọa bành trướng của CS nên ngày 7 tháng 2 năm 1950, Hoa Kỳ và Anh quốc chính thức thừa nhận chính phủ Quốc gia Việt Nam do Đức Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo. Đây là một điểm mốc đánh dấu khúc quanh lịch sử từ một cuộc chiến “ Giải phóng Dân tộc” sang một cuộc chiến “Ý thức hệ”.
(6) Việt Nam 1945-1975 của Lê Xuân Khoa tr 100. Theo Qiang Zhai, China & The Vietnam wars, 1950-1975 (Chapel Hill: The North Carolina University Press,2000), thì Việt Minh và quân đội giải phóng của Mao Trạch Đông đã bắt đầu hợp tác không chính thức ở vùng biên giới từ năm 1946. Từ tháng 3 năm 1946, Đệ nhất Trung đoàn của Hồng quân Mao đã được phép sử dụng phần đất của Việt Nam ở biên giới để làm hậu cứ để tấn công quân đội Tưởng Giới Thạch. Một ngàn quân của Trung đoàn này được Việt Minh tiếp tế lương thực và thuốc men. Để đáp lại, các sĩ quan Trung quốc huấn luyện bộ đội Việt Minh ở Thái Nguyên và Bắc Giang từ tháng 6 năm 1946. Năm 1947, 1,000 binh lính người Việt gốc Hoa cũng được huấn luyện và sát nhập vào bộ đội Việt Minh (Qiang Zhai, 11-12)
(7). Năm 1942, trong một phiên họp cuả Hội đồng chiến tranh Thái Bình Dương gồm Trung Hoa-Phi Luật Tân-Úc-Tân Tây Lan và Canada, TT Roosevelt cho biết là ông không muốn thấy chế độ thuộc địa Pháp được phục hồi ở Đông Dương. Đặc biệt, trong lá thư gửi cho Bộ Trưởng Ngoại giao Cordell Hull ngày 24-1-1944 Roosevelt viết: “Đông Dương không nên bị trả cho Pháp mà cần được đặt dưới sự ủy trị của quốc tế. Pháp chiếm đóng xứ này đã gần một trăm năm mà dân chúng ở đây còn khổ cực hơn lúc ban đầu …! Nhân dân Đông Dương có quyền được hưởng những điều kiện tốt đẹp hơn …”. Tuy nhiên ý định này bị Thủ tướng Churchill chống đối, Churchill tuyên bố rằng ông không bao giờ đồng ý cho bốn, năm chục nước thọc tay can thiệp vào sự tồn tại của đế quốc Anh. Sau Hội nghị Yalta tháng 2 năm 1945, Roosevelt bực dọc nói: Stalin thích ý kiến này, Trung Hoa cũng tán thành, Anh Quốc không ưa vì sợ đế quốc của họ tan vỡ …”. Ngay từ năm 1919, Hồ Chí Minh đã viết Bản Tuyên ngôn Tự trị và các quyền căn bản cho VN gửi TT HK Wilson, ngày 17 tháng 10 năm 1945 Hồ Chí Minh tìm gặp Đại sứ HK Caffery ở Paris trong thời gian dự hội nghị Fontainbleau để chuyển thư đến TT Truman. Tài liệu Bộ Ngoại giao HK cho biết thì HCM đã từng mong muốn Việt Nam được đặt dưới sự Bảo hộ của Mỹ như trường hợp Phi Luật Tân khi trước (Schulzinger 19, Duiker 340) Toán OSS cũng tường trình như sau: Đối với người An Nam, sự hiện diện của chúng ta là biểu tượng không phải cho sự giải phóng khỏi nạn chiếm đóng của Nhật mà giải phóng khỏi hàng chục năm dưới chế độ thuộc địa. Chính phủ VN xem Hoa Kỳ là nhà vô địch bênh vực cho quyền của các dân tộc nhược tiểu … (Hess,178-179)
CHÍNH MI …
SAU NGÀY MẤT NƯỚC, đi đâu nhìn lên tường cũng nhìn thấy hàng chữ đỏ lòm “Đời đời nhớ ơn bác Hồ vĩ đại” khiến nhức đầu nhức mắt ấm ức vô cùng. Được rồi mày “ Đời đời.. nhớ bác Hồ” thì tao “ Muôn năm .. muôn năm … hận cáo Hồ” .
Hai tay còng số tám,
Chân cùm kiểu Liên Xô .
Đái ăn nằm một chỗ
Muôn năm hận cáo “Hồ” …
Không phải chỉ riêng tôi mà hầu hết nhân dân Việt Nam cả ngoài Bắc lẫn trong Nam sau này đều bị ám ảnh bởi 3 chữ Hồ Chí Minh, mở miệng ra là Các Mác là Lê Nin, là Bác Hồ vĩ đại, là chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại mà tôi cứ nghĩ là “rồ dại”, sống mãi trong sự “thất nghiệp” của chúng ta …! Tự nhiên tôi nhớ tới lão tướng Phan Khôi trong Nhân văn Giai phẩm năm nào … Phải rồi Chính mi, chính mi Chí Minh ơi:
Chính mi bán nước Chí Minh ơi
Chính mi cõng rắn cắn nòi Việt Nam …
Chính mi gây cảnh tương tàn
Nồi da xáo thịt ngập tràn máu xương …
Gây bao nhiêu cảnh tang thương
Muôn dân đồ thán thê lương khốn cùng …
Mai này Cộng sản cáo chung
Đào Lăng quật mộ gian hùng Chí Minh …
NGÀY THÁNG ĐÓ…
Ngày tháng đó suốt đời ta nhớ mãi ..
Cả Sài Gòn phủ kín một màu tang ..!
Cờ hạ xuống bao hồn thiêng u uất,
Nước ngậm ngùi cau mặt khóc tang thương …!
Ta đứng đó lặng nhìn thành phố chết,
Bao hờn căm u uất bỗng dâng trào …
Lặng nghe lòng thổn thức những thương đau ..
Ôm mặt khóc .. Trời ơi mình chiến bại..!?
ĐOẠN TRƯỜNG
Gươm đàn hề nửa gánh,
Sầu cố quốc khôn khuây …
Nam nhi hề chi chí,
Vuốt mặt luống đoạn trường ..!
LỜI SÔNG NÚI
Ngày tháng đó buổi ta đi em khóc
Ngỡ nghìn trùng sông núi cách ngăn nhau …
Đừng khóc nữa em yêu xin đừng khóc
Thêm đau lòng vương vấn bước ta đi …
Lời sông núi ta đi theo tiếng gọi,
Vì tự do ta quét sạch bóng thù
Vì hạnh phúc nhân dân thề tranh đấu,
Không có gì ngăn nổi bước ta đi …
Không có gì ngăn nổi chí nam nhi …
MUÔN NĂM
Hai tay còng số tám,
Chân cùm kiểu Liên Xô .
Đái ăn nằm một chỗ
Muôn năm hận cáo “Hồ” …
X ÍCH PH ẢI TUNG …
“ Chân cùm tay xích đầu sao xích,
Xích sẽ có ngày xích phải tung ..!
Tư tưởng tinh thần làm sao xích,
A ha .. A ha ..!
Xích sẽ đến ngày xích phải tung ..!
NHIỀU LÚC ngồi nghĩ lẩm ca lẩm cẩm không chừng mà lại đúng để tự an ủi mình rằng có lẽ kiếp trước mình cũng là tay sát thủ “độc cước đại hiệp”chăng? Với cú đá sát thủ chắc chết nhiều người lắm nên kiếp này mới bị cùm chân gần bẩy năm trời mà lại cùm 2 chân nên kiếp trước chắc là mình đá song phi nên bây giờ bị cùm 2 chân banh ra, cứ nằm ngửa chờ chờ chứ không nằm nghiêng được. Lúc đó ngoài giấc mơ chiến thắng mình còn mơ ước nhỏ nhoi là được ngủ nghiêng một giấc, đơn giản thế thôi. Vậy mà giấc mơ đó 7 năm sau khi ra khỏi xà lim mới thành hiện thực:“ Bẩy năm mơ giấc ngủ nghiêng, hết đêm lại sáng xích xiềng chân tay..! Ừ xích thì xích, xiềng thì xiềng có chết thằng Tây nào đâu mà sợ. Máu anh hùng lại nổi lên thách thức ngạo nghễ…
Sáng 30 tháng tư, phố xá Sài Gòn mang một bộ mặt khác thường, người qua kẻ lại hớt hãi vội vàng, phố xá ngổn ngang giày dép áo quần vất bỏ từng đống trên những con đường hoang tàn xơ xác của một thành phố chết. Người Sài Gòn vẻ mặt hốc hác sau mấy đêm dài mất ngủ, ngỡ ngàng ngơ ngác nhìn nhau … Rồi thì mạnh ai nấy tính, kẻ lo tìm đường vượt biển, người rầu rĩ khăn gói về quê, đổi chỗ ở tránh sự truy tìm lý lịch trả thù của Cộng sản. Buổi sáng hôm đó, tôi như kẻ mất hồn đi lang thang khắp Sàigòn lúc vừa đến tượng đài Thuỷ quân Lục chiến ở trước Hạ viện thì nghe súng nổ, người lại xôn xao nói về người chiến sĩ Việt Nam Cộng hoà nào đó đã móc súng tự sát trước tượng đài mà sau này biết ra là Trung tá Long Cảnh sát Quốc gia. Buổi trưa, sau khi từ Dinh Độc lập đi bộ lững thững về chợ Bến Thành, ngược trở lại Lê văn Duyệt tìm một quán cóc bên đường, kêu một ly cà phê đá rồi ngồi nhìn cảnh tượng hoang tàn mà lòng ngổn ngang trăm mối… Bàn bên cạnh mấy ông lớn tuổi mắt xớn xác nhìn ngang nhìn dọc rồi kể cho nhau nghe về chuyện mấy anh em thương phế binh ở Quân y viện Cộng hoà bị Việt Cộng đuổi ra khỏi bệnh viện đã rút kíp lựu đạn để mấy anh em cùng chết, rồi một trung đội nhảy dù dưới quyền chỉ huy của viên Thiếu Uý đã anh dũng chiến đấu đến giờ phút cuối cùng và họ đã chừa viên đạn cuối để tự kết liễu cuộc đời của những chiến sĩ hào hùng đó. Ngày tháng đó … tôi nhớ mãi những dằn vặt thao thức, những âu lo sợ sệt, những căm thù uất hận, những tức tưởi ngỡ ngàng …
Mỹ-Nhật cam kết gìn giữ an ninh châu Á Thái Bình Dương
Việt Hà, phóng viên RFA, Bangkok – 2012-05-03
Ngày cuối tháng 4 vừa qua, Hoa Kỳ bận rộn với các cuộc gặp với lãnh đạo các nước đồng minh quan trọng tại châu Á.
AFP – Hàng không mẫu hạm USS George Washington hướng dẫn các chiến hạm Nhật trong 1 cuộc tập trận ở Thái Bình Dương năm 2010
Một trong các cuộc gặp quan trọng diễn ra vào ngày 30 tháng 4 vừa qua là giữa Tổng thống Hoa Kỳ, Barack Obama với thủ tướng Nhật Yoshihiko Noda. Bản tuyên bố chung hai nước sau cuộc gặp tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của mối liên minh hai nước cũng như mối quan tâm chung của Mỹ và Nhật tại khu vực châu Á Thái Bình Dương. Để tìm hiểu thêm tương lai hợp tác hai nước trong mối liên hệ với an ninh khu vực thời gian tới, Việt Hà phỏng vấn ông Tetsuo Kotani, chuyên gia nghiên cứu tại Viện Quan hệ quốc tế của Nhật Bản. Trước hết nói về kết quả cuộc gặp lần này giữa hai nước, ông Tetsuo Kotani nhận xét:
Cân bằng sự lớn mạnh của Trung quốc
Tetsuo Kotani: cuộc gặp giữa thủ tướng nhật và tổng thống Mỹ không đưa ra một một điểm gì mới hơn trong khía cạnh hợp tác chiến lược về an ninh bởi hai nước đã cùng làm việc với nhau để đưa ra một chiến lược an ninh trong nhiều năm, và điều này đã khiến Mỹ giờ đây tập trung vào châu Á. Còn đối với Nhật Bản thì khu vực châu Á Thái Bình Dương vẫn luôn là trọng tâm chú ý trong chính sách. Cho nên cuộc gặp lần này chỉ tái khẳng định mối quan tâm chung và trọng tâm chú ý của hai nước là vào châu Á Thái Bình Dương
Việt Hà: Với sự lớn mạnh của Trung Quốc về kinh tế và quân sự mà một số nước có thể coi là một mối đe dọa tiềm năng, Nhật bản hy vọng gì ở mối liên minh với Mỹ để đối phó với mối đe dọa từ Trung Quốc?
Tetsuo Kotani: tôi không nghĩ là Nhật Bản đang nhìn Trung Quốc như một mối đe dọa mặc dù Nhật bản có thể coi Trung quốc là một mối quan ngại về an ninh. Vì vậy ưu tiên của chúng tôi là cân bằng sự lớn mạnh
Tàu ngầm Trung Quốc hoạt động thường xuyên trên Biển Đông cũng như ở Thái Bình Dương. Nguồn báo Trung Quốc
của Trung quốc, và đưa Trung Quốc theo trật tự an ninh chung của khu vực. Cả hoa kỳ và Nhật bản đều có chung mục tiêu này. Cho nên cuộc gặp cấp cao lần này giữa hai nước đã tái khẳng định mục tiêu chung này.
Tôi không nghĩ là Nhật Bản đang nhìn Trung Quốc như một mối đe dọa mặc dù Nhật bản có thể coi Trung quốc là một mối quan ngại về an ninh. Vì vậy ưu tiên của chúng tôi là cân bằng sự lớn mạnh của Trung quốc, vàđưa Trung Quốc theo trật tự an ninh chung của khu vực.
ông Tetsuo Kotani
Việt Hà: Hoa Kỳ đã chuyển trọng tâm sự chú ý vào khu vực châu Á Thái Bình Dương bằng cách thắt chặt mối quan hệ về quân sự với các nước như Úc, Singapore, Philippines và Nam Hàn. Mối liên minh Nhật Bản và Mỹ đóng vai trò quan trọng thế nào trong mạng lưới liên minh này của Mỹ để duy trì an ninh và ổn định trong khu vực?
Tetsuo Kotani: mối liên minh Nhật bản và Hoa Kỳ về an ninh hết sức quan trọng cho sự ổn định và hòa bình trong khu vực. Nhưng nếu chỉ có Hòa Kỳ và Nhật bản thì chúng tôi không thể đảm bảo an ninh cho toàn khu vực vì vậy mặc dù hai nước đã thắt chặt mối liên minh nhưng chúng tôi đồng thời cần sự hợp tác từ các nước khác như Australia, Nam Hàn, Singapore, Việt Nam và Philippines. Trong bản tuyên bố cho thấy chúng tôi mong muốn mở rộng hợp tác an ninh với các nước trong khu vực và chúng tôi cũng không muốn bỏ Trung Quốc ra ngoài sự hợp tác
Việt Hà: Vậy đâu là thách thức trong mối liên minh Nhật Mỹ?
Tetsuo Kotani: theo tôi thách thức chính là sự cách biệt về khả năng quốc phòng giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực. Khả năng quốc phòng của nước này đang gia tăng và mặc dù chưa hơn được Mỹ hay Nhật
Phó Đô đốc hải quân Philippines Alexander Pama trưng hình ảnh hai chiếc tàu hải giám Trung Quốc chặn tàu chiến Philippines trong một cuộc họp báo tại Manila ngày 11/4/2012.AFP
nhưng nếu so với các nước ASEAN thì họ hơn nhiều. Vì vậy chúng tôi cần phải lấp đầy sự cách biệt này. Đó là lý do mà Mỹ và Nhật mở rộng hợp tác với các nước ASEAN trong đó có Philippines, Việt Nam.
Khả năng quốc phòng của nước này (TQ) đang gia tăng và mặc dù chưa hơn được Mỹ hay Nhật nhưng nếu so với các nước ASEAN thì họ hơn nhiều. Vì vậy chúng tôi cần phải lấp đầy sự cách biệt này. Đó là lý do mà Mỹ và Nhật mở rộng hợp tác với các nước ASEAN trong đó có Philippines, Việt Nam
ông Tetsuo Kotani
Ảnh hưởng kinh tế và chính trị
Việt Hà: cả Mỹ và Nhật đều đã trải qua khủng hoảng kinh tế trong khi kinh tế Trung quốc vẫn tăng trưởng, điều này có ảnh hưởng thế nào đến liên minh quân sự mà Mỹ và Nhật Bản muốn tạo dựng trong khu vực?
Tetsuo Kotani: cả Mỹ và Nhật đã trải qua những khó khăn về kinh tế trong khi kinh tế Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng. Nếu Nhật bản và Hoa Kỳ không tiếp tục khẳng định mối hợp tác và quan tâm đối với các nước ASEAN thì Trung Quốc có thể sử dụng sức mạnh kinh tế của mình để tạo ảnh hưởng lên các nước này. Cho nên điều chúng ta cần làm là chúng ta vẫn phải duy trì mối quan hệ kinh tế với Trung quốc. Trong khi đó chúng ta cũng phải tạo dựng một khuôn khổ hợp tác kinh tế không nhất thiết là phải có Trung Quốc trong đó. Ví dụ chúng ta đang có TPP. Lúc này Trung Quốc vẫn chưa gia nhập TPP, nếu chúng ta có thể tạo dựng một khuôn khổ hợp tác kinh tế hiệu quả thì đây có thể là một đối trọng với Trung Quốc.
Mỹ và Nhật đã trải qua những khó khăn về kinh tế trong khi kinh tếTrung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng. Nếu Nhật bản và Hoa Kỳ không tiếp tục khẳng định mối hợp tác và quan tâm đối với các nước ASEAN thì Trung Quốc có thể sử dụng sức mạnh kinh tế của mình để tạo ảnh hưởng lên các nước này
ông Tetsuo Kotani
Loại tàu Haijian (Hải Giám) hiện đại của Trung Quốc tuần tiểu ngày đêm trên các khu vực tranh chấp ở Biển Đông. (ảnh minh họa)AFP
Việt Hà: Trong cuộc gặp lần này, hai nước cũng đề cập đến việc rút quân Mỹ khỏi đảo Okinawa, điều nảy có ảnh hưởng thế nào đến hiệu quả hợp tác quân sự hai nước trong việc đảm bảo an ninh khu vực?
Tetsuo Kotani: việc rút quân Mỹ khỏi căn cứ Okinawa có thể có tác dụng tích cực về mặt chính trị bởi vì người dân Okinawa không muốn có nhiều quân Mỹ trên đảo. Cho nên chúng tôi phải giảm số quân mỹ tại đây. Và điều này có ý nghĩa tích cực về mặt chính trị để duy trì mối liên minh hai nước. Tuy nhiên đúng là việc giảm quân có thể có ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng đánh chặn. Tuy nhiên với mối liên minh quốc phòng mạnh giữa hai nước chúng ta có thể khắc phục được điểm này. Hiện tại Mỹ đã triển khai quân đến một số vùng quan trọng trong khu vực và họat động cũng linh họat cho nên nhìn chung thì khả năng đánh chặn vẫn có thể được duy trì và thậm chí được tăng cường hơn.
…bởi vì người dân Okinawa không muốn có nhiều quân Mỹ trên đảo. Cho nên chúng tôi phải giảm số quân mỹ tại đây. Và điều này có ý nghĩa tích cực về mặt chính trị để duy trì mối liên minh hai nước. Tuy nhiên đúng là việc giảm quân có thể có ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng đánh chặn.
ông Tetsuo Kotani
Việt Hà: theo ông trong tương lai Nhật Bản và Hoa Kỳ có thể có các họat động quân sự nào cụ thể trong khu vực?
Tetsuo Kotani: Hoa Kỳ luôn có những cuộc tập trận chung hay trao đổi với các nước trong khu vực, đôi khi Hoa Kỳ cũng bán các thiết bị cho các nước này. Trong bản tuyên bố mới giữa Nhật bản và Hoa Kỳ chúng ta thấy là Nhật Bản sẽ cố gắng tận dụng ODA, ví dụ nhật bản vừa tuyên bố là sẽ cung cấp tàu tuần tiễu cho Philippines. Và theo tôi thì Nhật bản sẽ tiếp tục cung cấp các thiết bị quốc phòng cho các nước khác như Việt Nam, Brunei và Ấn Độ.
Chúng tôi đã gửi người quan sát đến cuộc tập trận chung giữa Mỹ với Philippines, và theo tôi thì Nhật bản sẽ tiếp tục mở rộng các họat động tập trận chung và đào tạo chung.
Việt Hà: xin cảm ơn ông
Theo dòng thời sự:
Ngoại trưởng Mỹ Clinton đến Ấn Độ để thúc đẩy quan hệ song phương
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton cầm tấm vải choàng Sari khi đến thăm một triển lãm chống tệ nạn buôn người, Calcutta, Ấn Độ, 06/05/2012
REUTERS/Shannon Stapleton
Thụy My
Ngoại trưởng Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton, hôm nay 06/05/2012, đã đến Calcutta trong khuôn khổ chuyến viếng thăm Ấn Độ ba ngày. Mục đích của chuyến công du này là nhằm tái thúc đẩy quan hệ đôi bên hiện đang lỏng lẻo, cho dù trong những năm qua, hai nước đã có nỗ lực để xích gần lại với nhau.
Bà Clinton đã được người dân Calcutta đón chào với các biểu ngữ trên đường phố. Tại đây, bà sẽ viếng thăm một số công trình và gặp gỡ những người dân bình thường. Sự mến mộ của dân chúng dành cho bà cũng là thế mạnh ngoại giao của Ngoại trưởng Mỹ.
Ngày mai, thứ Hai, bà Hillary Clinton sẽ đến New Delhi để hội đàm với thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh, nhằm thuyết phục Ấn Độ ngưng mua dầu hỏa của Iran. Đây là một trong các bất đồng gay gắt nhất giữa hai nước trong những năm gần đây.
Chuyến công du của Ngoại trưởng Mỹ trùng hợp với thời điểm một phái đoàn đông đảo của Iran cũng đến Ấn Độ vào tuần này, để tìm kiếm các cơ hội thương mại, hầu làm giảm nhẹ ảnh hưởng các biện pháp trừng phạt Iran của Hoa Kỳ.
Bà Clinton cho biết đã có những tiển triển quan trọng trong quan hệ với Ấn Độ, nêu ra những tăng tiến trong trao đổi thương mại và việc hợp tác trong nhiều lãnh vực từ giáo dục cho đến năng lượng xanh. Bà nói : « Cũng như trong tất cả mối quan hệ khác, có những tiến bộ trong một số lãnh vực đã khích lệ chúng tôi, và có những việc khác cần phải hoàn thành. Nhưng khi chúng tôi nói với một quốc gia là muốn trở thành đối tác của nước đó, có nghĩa là đã có một sự cam kết từ phía chúng tôi ».
Trong lần viếng thăm vào năm ngoái, bà Hillary Clinton đã kêu gọi Ấn Độ đóng một vai trò lớn hơn trên thế giới, và nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ giữa hai nền dân chủ lớn này trong thế kỷ 21. Tuy nhiên, từ đó đến nay, đà phấn khởi đã nhạt đi. Một số nghị sĩ Mỹ không ngần ngại chỉ trích việc Ấn Độ tiếp tục mua dầu hỏa của Iran. Giới chủ Mỹ cũng bực tức trước việc Ấn Độ chưa muốn mở cửa cho các tập đoàn phân phối lớn.
Quan hệ Mỹ – Ấn vốn nhiều trắc trở trong thời kỳ chiến tranh lạnh, đã bắt đầu được hâm nóng lại từ cuối thập niên 90 dưới thời tổng thống Bill Clinton, và tiếp tục với ông George W. Bush, giúp Ấn Độ thoát khỏi tình trạng bị cô lập do hồ sơ nguyên tử.
Một viên chức cao cấp Mỹ tháp tùng bà Clinton nhìn nhận là New Delhi đã có giảm nhẹ nhập khẩu dầu thô từ Iran. Ấn Độ lệ thuộc rất nhiều vào nguồn năng lượng nhập khẩu, và có quan hệ thân hữu với Iran trong nhiều năm qua. Tuy nhiên theo viên chức trên đây, thì các doanh nhân Ấn Độ không muốn vấn đề Iran làm hỏng mối quan hệ tốt đẹp với Hoa Kỳ.
Cựu đại sứ Ấn Độ tại Liên Hiệp Quốc T.P. Sreenivasan cho rằng chuyến công du của bà Clinton « diễn ra đúng lúc vì có một số căng thẳng trong quan hệ cần làm dịu bớt ». Còn theo chuyên gia C.Raja Mohan của Observer Research Foundation, thì Hoa Kỳ và Ấn Độ có cùng một mục tiêu về hồ sơ Iran, và cả hai bên đều muốn duy trì những khác biệt ở những giới hạn chấp nhận được.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thứ Hai, 07 tháng 5 2012
Bà Clinton gặp nhân vật khu vực chủ chốt trong chính trường Ấn Ðộ
Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đang có mặt tại thủ đô Ấn Ðộ nơi bà dự trù sẽ gặp các giới chức cấp cao nhất của nước này. Bà Clinton đang hối thúc quốc gia đói năng lượng này tiếp tục bớt nhập dầu hỏa của Iran. Từ New Delhi, thông tín viên VOA Kurt Achin gửi về bài tường thuật sau đây.
Kurt Achin | New Delhi
Hình: ASSOCIATED PRESS – Ngoại trưởng Clinton gặp bà Mamata Banerjee, thủ hiến bang Tây Bengal, một trong những nhân vật khu vực có nhiều thế lực, ngày 7/5/2012
Trước khi đến thủ đô Ấn Độ hôm nay, ngoại trưởng Clinton đã gặp tại Kolkata một trong những nhân vật khu vực có nhiều thế lực nhất – đó là bà Mamata Banerjee, thủ hiến Tây Bengal.
Đây là cuộc họp quan trọng đầu tiên của bà Clinton kể từ khi bà từ Bangladesh đến Ấn Độ, nhưng bà Banerjee cho biết hai vấn đề được nhiều người trông đợi nhất đã không được đưa vào nghị trình thảo luận.
Đáp lại một câu hỏi của phóng viên, bà Banerjee nói bà và bà Clinton đã không bàn đến vấn đề đầu tư trực tiếp của nước ngoài hay đến một thỏa thuận bị đình trệ về việc chia nguồn nước con sông Teesta dọc theo biên giới giữa Tây Bengal và Bangladesh.
Năm ngoái, lẽ ra một lệnh của chính phủ Ấn Độ đã cho phép nước ngoài được tham gia sở hữu các hoạt động bán lẻ nhiều mặt hàng ở các thành phố lớn. Lệnh này lẽ ra đã có hiệu lực cho phép các công ty lớn như Wall-mart được kiểm soát các dây chuyền cung ứng thực phẩm và nông nghiệp. Bà Banerjee chống đối lệnh này, và đòi chính phủ phải bãi bỏ lệnh bằng cách đe dọa rút đảng của bà ra khỏi liên minh cầm quyền.
Trước cuộc họp với bà Banerjee, bà Clịnton đã ngỏ ý trong một cuộc hội thảo được truyền hình rằng có nhiều phần chắc bà sẽ nêu ra vấn đề đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Ngoại trưởng Clinton nói: “Có một khối lượng kinh nghiệm rất lớn về có thể đưa vào Aán Độ về quản lý dây chuyền cung ứng, về phát triển quan hệ với các nhà sản xuất nhỏ để có thể tăng khối lượng sản xuất, và có thể có mọi loại trợ giúp dành cho nông dân về sản lượng nông nghiệp. Do đó, tôi nghĩ sẽ có rất nhiều lợi ích có thể không nhất thiết nhìn ra ngay được.”
Bộ trưởng tài chính Ấn Độ Pranab Mukherjee hôm nay loan báo rằng Ấn Độ sẽ nới lỏng một số biện pháp về thuế khóa gây tranh cãi đã khiến nhiều nhà đầu tư quốc tế lo ngại. Chưa rõ liệu thời điểm đưa ra thông báo này có liên quan phần nào đến chuyến thăm của bà Clinton hay không.
Tại New Delhi, bà Clinton dự trù sẽ thăm Thủ tướng Manmohan Singh và chủ tịch đảng Quốc Đại Sonia Gandhi. Bà Clinton cũng dự tính gặp người tương nhiệm phía Ấn Độ là ngoại trưởng S.M. Krishna, để dọn đường cho một diễn đàn sách lược giữa Aán Độ và Hoa Kỳ dự trù diễn ra tại Washington vào tháng tới.
Vấn đề Ấn Độ nhập khẩu dầu của Iran cũng được trông đợi sẽ được xếp cao trong nghị trình gặp gỡ của bà Clinton. Hoa Kỳ và châu Âu đã áp đặt các biện pháp chế tài Tehran để ngăn họ tiến hành một chương trình vũ khí hạt nhân.
Ấn Độ không ủng hộ các biện pháp này và trên thực tế đang tìm cách tăng cường giao dịch thương mại không liên quan đến dầu với Iran. Tuy nhiên, bà Clinton thừa nhận các nỗ lực của Ấn Độ là âm thầm giảm bớt lượng nhập khẩu dầu và bà được trông đợi sẽ kêu gọi các nhà lãnh đạo Ấn Độ thực hiện thêm nhiều cố gắng hơn nữa.
Bà Clinton nói: “Chúng tôi rất tán đồng những gì đã thực hiện được và đương nhiên chúng tôi muốn tiếp tục làm áp lực đối với Iran, do đó bất cứ điều gì mà Ấn Độ và các nước khác có thể làm được, đều sẽ giúp chúng tôi đạt được điều đó.”
Trong khi đó, bà Clinton hôm nay xác nhận là bà đã đích thân cho phép treo giải thưởng 10 triệu đôla cho ai cung cấp thông tin để bắt giữ và truy tố nghi can khủng bố người Pakistan Hafiz Saeed. Saeed đã đóng một vai trò chính trong việc hoạch định các vụ tấn công khủng bố ở Mumbai đã làm 166 người thiệt mạng. Đã có một số hiểu lầm về khoản tiền thưởng này kể từ tháng trước, khi đại sứ của Washington tại Pakistan nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ không đề nghị khoản tiền thưởng này.
Bà Clinton hôm nay còn cho biết bà tin rằng thủ lĩnh al-Qaida Ayman al-Zawahiri đang ở Pakistan. Tại Islamabad, Ngoại trưởng Hina Rabbani Khar nói với các phóng viên rằng nếu Washington có bằng chứng về sự hiện diện của hắn ra, thì phải cung cấp bằng chứng đó cho Pakistan bởi vì al-Qaida là một kẻ thù của cả hai nước. |
|
NHÌN LẠI CUỘC CHIẾN VIỆT NAM: AI THẮNG AI?
XIN MỜI ĐỌC TIẾP TRONG
– Http:www // dienhongthoidai.com
– Http:www // tunhanluongtamvietnam
– Http:www //vietnamtomorrow.wordpress.com
– Phamtrananh.net
Filed under: CHÚNG TÔI MUỐN NÓI | Leave a comment »